Trang chủ » Lịch Sử Thế Giới

Category Archives: Lịch Sử Thế Giới

Các trận đánh lừng danh của Napoléon

 

  • Trận Toulon (1793)
  • Chiến dịch ITALY (1796-97)
  • Viễn chinh Ai Cập(1798-99)
  • Trận Marengo (1800)
  • Trận Ulm (1805)
  • Trận Chiến Austerlitz-1805
  • Trận Jena-Auerstad (1806)
  • Trận Eylau (1807)
  • Trận Friedland (1807)
  • Trận Essling-Aspern (1809)
  • Trận Wagram (1809)
  • Trận Borodino (1812)
 The Napoleon Series

Dưới chế độ quân chủ Bourbon, Napoléon có rất ít hy vọng được thăng cấp nhưng khi cuộc Cách Mạng Pháp lên cao độ vào ngày 10-8-1792 với chế độ quân chủ đã bị lật đổ và một nước Cộng Hòa được thành lập, thì đây là cơ hội rất tốt, có tính quyết định đối với cuộc đời của Napoléon và đã mở ra để Napoléon tiến lên đài vinh quang với những trận đánh nổi tiếng….

 imperio-napoleonico

Trận Toulon (1793)

Tran Toulon (1793)

Đây là trận đánh đầu tiên đánh dấu sự bắt đầu của một tài năng quân sự sẽ làm rung chuyển châu Âu trong suốt gần 2 thập kỷ tiếp theo. Lúc này sau cách mạng Tư Sản 1789, ở Marseille có cuộc nổi dậy của những người ủng hộ hoàng gia được sự hậu thuẫn của người Anh, Sau khi tướng Carteaux giải phóng Marseille vào ngày 25-8, phe bảo hoàng đã kịp giao Toulon cho quân Anh, Hạm đội hải quân hoàng gia đã thả neo, đổ bộ một bộ phân quân lính tăng cường cho lực lượng vốn đã rất đáng gờm ở đây.

 

Cảng Toulon lúc đó chiếm một vị trí quan trọng, trấn giữ vùng Địa Trung Hải và 1/3 số chiến thuyền của Pháp đóng tại đây. Đô đốc Samuel Hood và tướng O’Hara phía quân Anh đã củng cố lại các pháo đài, trang bị với các khẩu thần công lớn yểm trợ nhằm ngăn cản nỗ lực chiếm lại cảng của quân cộng hòa.

Phía Pháp tướng Carteaux vốn bất tài, ngay khi Napoleong lúc đó đang là đại úy thăm các ụ pháo do ông này bố trí xây dựng đã thấy ngay tầm bắn của đạn pháo không thể với tới các chiến thuyền Pháp. Trước đó Napoleong đã gửi về bộ trưởng chiến tranh ở Paris đề xuất một mô hình lò có khả năng nung đỏ đạn đại bác đến mức có thể làm cháy thuyền địch. Mặc dù bị Carteaux gây cản trở nhưng Bonaparte vẫn được tín nhiệm thăng cấp thiếu tá chỉ huy pháo binh.

Quân Anh chủ động tấn công vào các ụ pháo của quân Pháp nhưng tổn thất nặng nề, Napoléong truy quét và bắt được tướng O’Hara. Pháo Binh Pháp bắt đầu tấn công vào hai pháo đài Éguillette và Balaguir, vốn ở vị trí then chốt có thể hỷ diệt mọi tàu bè tiến vào cảng. Quân Anh cũng trả đũa bằng phản pháo. Vào giữa đêm 16/12 Bonaparte dẫn đầu một tiểu đoàn bộ binh tấn công vào đánh vào điểm cao Caire và chiếm pháo đài nhỏ Gibraltar. Sau đó chính những thần công của Anh được quay nòng về chính phía họ. Bonaparte mặc dù bị thương ở đùi vẫn thừa thắng dẫn bộ binh đánh thẳng vào hai pháo đài Éguillette và Balaguir. Quân Anh hoảng loạn bỏ chạy để lại toàn bộ số thần công còn chưa dùng đến. Ngay lập tức các hạm đội Anh trong cảng bị pháo binh tấn công. Ngày hôm sau cũng với chiến thuật như vậy Napoléon chiếm tiếp pháo đài Malbosquet, các chiến thuyền Anh phải bỏ chạy trước khi đốt cháy các chiến thuyền Pháp.

Napoléon được thăng lên cấp tướng chỉ huy lữ đoàn. Khi đó ông mới 24 tuổi.

 410px-Siege_of_Toulon_map

Chiến dịch ITALY (1796-1797)

Đây là chiến dịch đầu tiên trong đời của Napoleon. Nó bắt đầu vào ngày 11/3/1796 khi ông nhận lệnh từ viện Đốc chính, tức 3 ngày sau khi ông kết hôn với Josephine.

 

Nhưng ngay khi đặt chân đến đơn vị của mìn, rắc rối đầu tiên đã xảy ra. Đơn vị do ông chỉ huy rơi vào tình trạng đến nỗi không khác gì một đám đói rách. Nạn tham nhũng hoành hành khắp nơi. Binh lính đói rách, nghèo khổ, thậm chí cả một tiểu đoàn không có giày. Nạn bóc lột, ăn hối, ăn cắp vặt…… diễn ra từng ngày. Các tướng lĩnh lại không ưa Napoleon vì họ thấy phải phục tùng một thắng nhóc 27 tuổi là sự sỉ nhục.

Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng Napoleon vẫn rất bình tĩnh. Ông đến từng đơn vị động viên binh lính và cố gắng phát lương cho họ. Ông thay những khẩu pháo cũ kĩ bằng những khẩu pháo mới và mạnh hơn.Ông dùng nhiều cách để kích động, lấy tinh thần binh sĩ và xử bắn những kẻ nổi loạn. Vì vậy chỉ trong một thời gian ngắn, quân đội của ông đã đâu vào đấy.

Ngày 9/4/1796, Napoleon quyết định vượt núi Aples cùng với quân đội cuả mình. Chiến dịch thật sự bắt đầu.

Đây là một cuộc hành quân gian khổ. Tuy vậy, quân đội Pháp đã vượt qua trong 6 ngày. Ngay sau đó họ đã có một trận đấu với quân Áo và quân Piemont và sau đó quân Pháp đã chiếm được vùng đất phì nhiêu này. Không dừng ở đó, Napoleon thúc quân đi đánh chiếm Milan đang nằm trong tay quân Áo. Với sự nghi binh tài tình, Napoleon đã dẫn binh lính vượt qua sông Po thành công và tiến sát vào Milan hơn. Sau thất bại này, quân Áo rút qua sông Ada cố thủ, ngăn không cho quân Pháp tiến lên. Ngày 10/5/1769 quân Pháp và Áo đánh nhau đẫm máu ở cầu Lodi bắc qua sông Ada.Trước khi trận đánh nổ ra, Napoleon đã đích thân đi trinh sát trận địa và đã tự tay bố trí trận địa pháo binh. Ông căn đo thật kĩ và chính xác vì ông biết chỉ có hoả lực pháo binh mới hạ được quân Áo.

Đúng như ông dự kiến, hoả lực mạnh mẽ của pháo binh Pháp đã làm tê liệt quân Áo.Lúc cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ở đầu cầu thì Napoleon, dẫn đầu một tiểu đoàn cận vệ, xông tới dưới làn mưa đạn, 20 khẩu pháo của quân áo nhả đạn quét sạch cầu và lân cận. Lính cận vệ, do Napoleon dẫn đầu, đã chiếm được cầu và đánh bật được quân áo ra xa. Sau một ngày đánh nhau đẫm máu, Quân Áo vỡ trận bỏ chạy bỏ lại trên chiến trường 15 khẩu pháo và chừng 2.000 người vừa bị chết và bị thương. Napoleon tung quân truy kích và chiếm Milan ngày 15/5/1796. Vùng Lombardie rơi vào tay quân Pháp.

Nước Áo, sau thảm bại ở Milan, đã quyết định phục thù. Họ liền thay đổi tướng viên tướng già bằng một viên tướng trẻ mới và tăng cường thêm hỏa lực, bổ sung thêm quân. Để đối đầu với quân Áo mạnh hơn hẳn, Napoleon đã quyết định dùng kế để thắng. Ông ra lệnh cho binh sĩ rút khỏi thành Mantova, để lại một lượng lớn pháo và vũ khí. Khi tiến vào,quân Áo thâý thành trống trơn, tưởng đối phương đã rút lui liền mừng ra mặt. Và họ đã phạm sai lầm khi chia quân ra truy kích. Chỉ chờ thời cơ này, Napoleon liền phản công bằng cách diệt từng cánh quân đối phương. Vì vậy, chỉ mất 6 ngày, quân Pháp đã diệt gọn 20 ngàn lính Áo. Quân Pháp thừa thắng tiến lên tấn công tàn quân Áo đã chạy về thành Mantova. Sau khi bao vây suốt năm tháng trời, triều đình Áo cử ngay 40 ngàn quân đến giải vây. Ngaỳ 15/11/1796 tại cầu Arcole đã diễn ra trận đánh đẫm máu kéo dài đến ngày 17/11/1796. Quân Áo đại bại, phải đầu hàng vô điều kiện.

Napoleon đã vượt qua những thử thách máu lửa đấu tiên ở nước Italy khi mới 27 tuổi. Sang năm 1797, được sử phê chuẩn của phủ đốc chính, Napoleon dẫ quân tiến vào nước Áo. Cả triều đình Áo hoảng sợ, rối loạn và phải cầu hòa.

Tháng 7/1797, hai nước Pháp-Áo kí hiệp ước đình chiến, chiến tranh kết thúc.

 

Viễn chinh xâm lăng Ai Cập (1798-1799)

Vào tháng 5 năm 1798, Napoléon bắt đầu cuộc viễn chinh tại Ai Cập với 38,000 quân. Các chiến thắng bắt đầu: pháo đài Malta của các hiệp sĩ Hospitallers (the Knights Hospitallers of St. John of Jerusalem) bị thất thủ vào ngày 10-6-1798, rồi thành phố Alexandria của Ai Cập đầu hàng vào ngày 1 tháng 7. Napoléon đã đánh bại các kẻ cai trị xứ Ai Cập có tên là nhóm Mamelukes, trong trận đánh tại các Kim Tự Tháp gần thành phố Cairo.Quân Mamelukes đã chạy trốn về phía nam, bỏ lại một phần pháo binh (40 khẩu pháo). Mấy nghìn xác chết phủ kín chiến trường. Rồi đồng bằng sông Nile bị chinh phục rất nhanh chóng.

Nhưng, vào ngày 1-8-1798, hạm đội Pháp bỏ neo tại Vịnh Abu Qir đã bị hoàn toàn phá hủy bởi hạm đội Anh của Đô Đốc Horatio Nelson trong trận thủy chiến “Dòng Sông Nile” (the Battle of the Nile) khiến cho đoàn quân Pháp bị mắc kẹt trong miền đất mà họ đã chinh phục được và bị cắt đứt các nguồn tăng cường và tiếp tế. Cũng vào thời gian này, Napoléon đã cố gắng đưa vào xứ Ai Cập các định chế chính trị, cách quản trị và tài năng kỹ thuật của tây phương. Quốc gia bảo hộ Ai Cập là Thổ Nhĩ Kỳ bèn liên minh với các nước Anh, nước Nga và tuyên chiến với nước Pháp vào tháng 9 năm đó. Để ngăn chặn cuộc tấn công của Thổ Nhĩ Kỳ vào xứ Ai Cập và có lẽ cũng vì muốn trở về đất Pháp bằng con đường Anatolia, Napoléon đã đưa quân qua Syria vào tháng 2 năm 1799, tiến tới pháo đài Acre (ngày nay là Akko, thuộc nước Do Thái) và đoàn quân Pháp đã bị chặn đánh thảm bại tại nơi này.Sau nhiều đợt xung phong vô hiệu, ngày 20 tháng 5 năm 1799, quân Pháp phải bỏ cuộc bao vây, tổng cộng quân Pháp đã mất 3.000 người. Bên bị bao vây còn thiệt hại lớn hơn thế nữa.

Napoléon đành phải rút về Ai Cập và khi tới Abu Qir, gần Vịnh Abu Qir, ông đã đột kích và tiêu diệt gần 15.000 quân Thổ vào ngày 25 tháng 7 năm 1799.

Vào tháng 8 năm 1799,Có nhiều âm mưu phản cách mạng. Chế độ Cộng Hòa đang cần cấp cứu.Hội Đồng Chấp Chính đã ra lệnh cho Napoléon trở về . Tháng 8 năm 1799, Napoléon Bonaparte lên tầu, lẻn về Pháp, giao quyền chỉ huy đoàn quân Ai Cập cho Tướng Jean Kleber.

 

Trận Marengo (1800)

Đây là trận đánh quan trọng đầu tiên của Napoleon trong cương vị Tổng tài của nước Pháp.Trận đánh khởi đầu vào buổi sớm ngày 14 tháng 6 năm 1800 ở gần Marengo.Napoleon có cả thảy 20.000 quân và chỉ điều động bộ phận pháo loại tồi nhất cùng vượt đèo Grăng Xanh Béc-na với ông hồi tháng 5, còn pháo binh chủ lực đã hành quân đến chậm vì bị mắc vây và đánh chiếm một cứ điểm mạnh trong núi che chở cho quân áo. Trong khi tướng Áo Melas chỉ huy một đạo quân 30.000 người và 100 cỗ pháo có đầy đủ đạn dược thì Napoleon lại còn phải giao cho tướng De Saix một phần trong số pháo tồi của mình. Thế là Napoleon chỉ có 15 khẩu pháo để chống với 100 khẩu của quân áo.

Quân Pháp vừa đánh vừa lùi và giáng cho quân địch những đòn đích đáng, nhưng bản thân cũng bị thiệt hại nặng. Đến hai giờ chiều, trận đánh xem chừng thất bại, không thể cứu vãn được. Quá ba giờ, Melas ca khúc khải hoàn, cử người về Viên báo tin quân áo toàn thắng, thu nhiều chiến lợi phẩm và tù binh, tướng vô địch Napoleon đã thất bại. Tình trạng hỗn độn đã bao trùm lên tổng hành dinh quân đội Pháp. Napoleon giữ thái độ bình tĩnh, vừa nhắc nhở cần phải cầm cự, vì trận đánh chưa kết thúc. Và đến ba giờ chiều, tình thế đột nhiên thay đổi một cách bất ngờ, bởi sư đoàn De Saix được phái xuống phía nam để cắt đường rút lui của quân địch đang từ Giên trở về cấp tốc hành quân quay trở lại, đã công kích ồ ạt vào quân áo đúng giờ phút quyết định chiến trường.

Quân áo hết sức tin tưởng vào sự toàn thắng của họ đến nỗi lúc ấy có nhiều đơn vị quân đội áo cho toàn thể đơn vị bố trí chuẩn bị nghỉ ngơi và ăn chiều. Bị sư đoàn tinh nhuệ của De Saix ập đánh và tiếp đó là tất cả các đơn vị của Napoleon cũng đánh vào, quân đội áo hoàn toàn bị đánh bại. Năm giờ chiều, quân áo bỏ chạy, bị kỵ binh Pháp truy kích. Tướng De Saix hy sinh ngay từ phút đầu của trận đánh,Napoleon đã bật khóc khi biết tin đó.

Nước Áo bị bắt buộc phải ký Hòa Ước Luneville vào tháng 2 năm 1801, công nhận nước Pháp có quyền chiếm đóng các miền sông Rhine, dãy núi Alps và dãy núi Pyrenées.

 

Trận Ulm (1805)

Đây là chiến địch đầu tiên của Napoleon trong vai trò hoàng đế Pháp.Sau khi biết tin chính xác quân Nga tiến sang nước Áo, Napoléon bỏ ý định tiến sang nước Anh và hướng các lực lượng chính của mình ra chống lại cuộc liên minh quân sự lần thứ 3 (Nga – Áo). Kế hoạch của Napoléon là tiến hành phòng thủ ở Italia và tập trung lực lượng chủ yếu dưới sự chỉ huy trực tiếp của mình trên mặt trận Nadube. Về mặt chiến dịch, chiến thuật, Napoléon chủ trương tìm cách không cho liên minh sát nhập lại với nhau và dự định dùng cách đánh tỉa để buộc đối phương rời ra từng mảnh. Thực hiện kế hoạch trên, theo lệnh Napoléon từ trại Boulogne (Tây Bắc Pháp), đại quân Pháp gồm 7 quân đoàn (186000 người) chia làm nhiều ngả, hành quân cấp tốc tiến về sông Danube có vị trí Ulm (Nam nước Đức) kiên cố án ngữ sườn bên trái. Chưa đầy 3 tuần lễ, một đoàn quân to lớn đối với thời bấy giờ đã di chuyển từ biển Manche đến sông Danube (hơn 1200 km) mà hầu như không có bệnh binh và người đi rớt lại phía sau. Đây là điều bất ngờ đối với khối liên minh quân sự lần thứ ba (Nga – Áo). Nhờ có kế hoạch hành quân cấp tốc, tất cả đã đến nơi tập trung xung quanh thành Ulm và dồn tướng Áo là Mack cùng phần lớn quân Áo như bị nhốt trong một cái túi.

Quân đoàn của Sout và Lannes cũng như kỵ binh của Murat đã vượt sông Danube và bất ngờ xuất kích vào sau lưng quân của Mack. Thấy tình hình nguy khốn, một bộ phận quân Áo chạy thoát về phía Đông, nhưng dại bộ phận bị vây dồn vào Ulm. Xung quanh Mack, vòng vây ngày càng thịt chặt. Mark muốn phá vây chạy trốn nhưng bị một tên gján điệp của Napoléon là Sunmaixte đánh lừa. Tên này quả quyết xin Mark cố thủ và chẳng bao lâu nữa Napoléon sẽ phải bỏ vây vì ở Paris đang có biến nổ ra một cuộc chống lại ông ta và thế là Mark đã trúng kế.

Ngày 15/10/1805, Nây và Lannes chiếm các cao điểm xung quanh Ulm. Tình thế của Mack trở nên tuyệt vọng. Napoléon cho người đến thương lượng đòi Mark phải đầu hàng và dọa nếu buộc phải đánh vào thì sẽ tiêu diệt hết. Ngày 20/10/1808, Mack đầu hàng, Napoléon thả cho Mark về, còn tù binh thì đưa sang Pháp.

Không nán lâu ở Ulm, Napoléon tiến thẳng đến Viên theo hữu ngạn sông Danube. Trong lúc truy kích, quân Pháp còn bắt thêm được rất nhieu tù binh. Số tổn thất của quân Áo lúc này đã lên tới 61000 người (32000 người ở Ulm, 29000 người bị bắt trước khi thành Ulm thất thủ) chưa kể số bị thương, bị chết, mất tích và một số bị bắt trong quá trình truy kích.

 

Trận Chiến Austerlitz-1805

Trận Austerlitz còn được gọi là Trận Ba Hoàng đế hay Trận Tam Vương là chiến thắng lớn nhất về mặt quân sự của Napoléon. Hoàng đế Napoléon với đạo quân 73.000 người đã đánh bẹp hai đạo quân Áo và Nga dưới quyền của Hoàng đế Áo Franz II và Nga hoàng Alexander I của Nga (tổng cộng 85.000 người) vào ngày 2 tháng 12 năm 1805 gần thành phố Austerlitz, ngày nay là thành phố Slavkov u Brna của Cộng hoà Séc.

Hoàn cảnh trước trận đánh

Napoléon đã đánh bại quân Áo tại Ulm vào tháng 10 và đã chiếm giữ Viên, thủ đô của Áo vào tháng 11.Khối liên minh lúc này chỉ còn trông vào quân Nga. Napoleon nhắm tới một chiến thắng nhanh chóng trước khi quân Phổ có thể gia nhập liên minh chống Pháp và đe doạ đến ông.Hạ thành Viên xong, Napoléon cấp tốc qua cầu, vượt sông Danube và xông thẳng vao quân Nga lúc này đang ở bên tả ngạn sông Danube, cũng vừa qua cầu. Ý định của Napoléon là chặn đường rút lui của quân Nga đang hối hả rút về phía Bắc. Kutuzov, Tổng chỉ huy quân đội liên minh đã thấy rõ, muốn thoát chết thì chỉ còn cách gấp rút lui quân về Onrăng ở phía Nam Onmát.Mặc dù trên suốt chặng đường lui quân dài hơn 400km từ Bơraonao đến Onmát, Kutudov gặp bao nỗi khó khăn và hiểm nguy nhưng với tài tổ chức và chỉ huy của mình, cuối cùng ông đã đưa được 75000 quân Nga hầu như đã kiệt sức về tới Onmát, tránh được sự đầu hàng nhục nhã và truy sát gấp của Napoléon. Như vậy, cuộc rút lui chiến lược của Kutuzov đã đạt được mục đích để ra là cứu thoát đại bộ phận quân Nga khỏi nguy cơ bị tiêu diệt; còn Napoléon thì không những không đạt được mục đích đề ra là truy kích gấp buộc Kutudôv phải giao chiến để tiêu diệt chủ lực quân Nga kết thúc sớm chiến tranh, mà còn buộc phải để lại một số quân ở các thành phố Áo nhằm bảo vệ hậu phương và các kho cung cấp lương thảo, vũ khí của mình.

Quân Nga vừa rút về đến Onmát có địa thế thuận lợi cho việc phòng thủ thì gần 15000 tàn quân Áo cũng vừa chạy tới. Song khi về đến Onmát, điều mà Kutuzôv quan tâm hơn cả là vừa lo củng cố, chấn chỉnh và tập trung quân liên minh lại, vưà suy nghĩ và xem xét đến hành động của Napoléon. Khi tới Onmát, Kutuzốv trù tính nếu quân Pháp còn tiến công thì tốt nhất là cứ tiếp tục rút lui. Ông phân tích: “Nếu Napoléon càng tiến sâu bao nhiêu thì hắn càng ở xa các đơn vị dự bị của hắn, và khi hắn tiên sâu vào Galixia tôi sẽ đào mồ chôn bọn Pháp ở đấy.” Quả nhiên đúng như vậy, khi sắp đến gần Onmát, mặc dầu quân Pháp đã mệt mỏi nhưng Napoléon vẫn thúc đội tiền vệ đuổi gấp Kutuzốv. Trước hành động đó, với kế hoạch đã được trù tính trước, Kutuzov hạ lệnh cho quân liên minh tiếp tục rút lui, nhưng kế hoạch rút lui của ông không sao thực hiện được vì ông đã vấp phải một trở lực lớn. Hoàng đế Aleksanđr cà một con người không hiểu gì về chiến tranh, nhưng lại hám danh, muốn quyết chiến và mở ngay một trận công kích vào quân Pháp. Không để ý gì đén ý kiến của Kutuzov, Aleksanđr liền quyết định tấn công và bác bỏ kế hoạch rút lui của Kutuzov. Không những thế, Aleksanđr còn làm một điều dại dột nữa là ủy nhiệm cho tướng Áo Frankz Von Weyrother người đã từng bị Napoléon đánh cho thua tơi bời ở nhiều nơi, nắm quyền chỉ huy liên quân Nga – Áo nghiên cứu kế hoạch tấn công.

Napoleon và các thống chế trước trận đánh

Chín vạn quân liên minh đã từ Onmát kéo về tập trung quanh Visan.Ý định tiến công của quân liên minh là không đánh thẳng từ Visan về Briun, nơi đại quân Pháp đóng,mà lại hành quân từ Visan xuống Austerlitz, lấy đó làm trận địa xuất phát tấn công và hình thành một mũi vu hồi lớn về phía quân Pháp để cắt đứt đường rút về Viên. Thực hiện kế hoạch trên vào ngày 1 tháng 12, toàn bộ liên minh quân Nga – Áo đã tới làng và hình thành bốn khối tiến công. Hướng tiến công chủ yếu là từ làng Austerlitz đánh xuống phía Tây Nam hướng cánh phải của quân Pháp.Kutudốv phản đối kế hoạch bố trí quân của Weyrother. Theo ý ông thì phải mau chóng thu thập những tin tức chính thức về lực lượng và việc bố trí quân của đối phương, rồi sau đó mới làm kế hoạch dàn quân. Song ý kiến của Kutudốv không được ai chú ý tới. Chiều tối ngày 1/12/1805, kế hoạch tấn công do Weyrother thảo ra đã được Aleksanđr thông qua.Khi nhận kế hoạch, một số tướng lĩnh Nga có kinh nghiệm đều cho rằng đó là do sự kém cỏi của Weyrother về các vấn đề chiến tranh nên trong bản đồ không thấy Weyrother nói gì đến lực lượng và ý định đối phương, không thấy nói gì đến hành động của từng khối quân và việc bố trí thành từng khối chỉ là phỏng chừng, cũng chẳng tính toán gì đến việc phối hợp lẫn nhau ở ngoài chiến trường. Do sự bố trí quân tự tin một cách mù quáng của Weyrother nên ông ta không để lại một sư đoàn nào làm lực lượng dự trữ khi quân Pháp tấn công

Đang truy kích quân Nga, Napoléon bỗng cho đội tiền vệ dừng ngay lại khi thấy quân Nga không rút lui nữa, đóng quân lại ở Onmát và đang chuẩn bị tấn công lại quân Pháp. Với tài phát hiện và phán đoán được đúng ý định tấn công của Aleksanđr, Napoléon tính rằng ở Austerlitz quân Nga – Áo sẽ được tập trung thành những khối lớn tiến công về hướng Nam và hình thành một mũi vu hồi lớn để rồi sau đó sẽ tìm cách đánh chặn đường đến Viên, đến Danubel và bao vậy hoặc đuổi quân Pháp lên phía Bắc dồn vào núi.Từ cơ sở nhận định như vậy, Napoléon hạ quyết tâm là bằng tác chiến hợp đồng binh chủng giữa bộ binh, kỵ binh và pháo binh, tấn công chớp nhoáng tiêu diệt quân liên minh, dùng hành động mau lẹ làm cho quân liên minh không kịp trở tay đối phó, không sao đoán được ý định của quân Pháp và lấy khu vực Nam cao điểm Pờrátden làm khu vực quyết chiến. Cho nên suốt trong quá trình Aleksanđr điều quân từ Visan xuống Austerlitz, Napoléon bí mật đưa dần quân Pháp từ Briun lên tăng cường cho các đơn vị tiền tiêu thành những khối tập trung lớn bố trí ở phía Đông suối Gômbathờ (khối ở quanh Puntôvích là khối tập trung lớn nhất). Triển khai trên một chính diện rộng từ Bắc xuống Nam chừng 7 km. Ông cũng không quên cài sẵn một mũi quân lớn nữa bí mật bố trí quanh khu vực sông Bônava và do Davout chỉ huy. Mũi này có nhiệm vụ đánh chặn đầu và dồn đuổi quân đối phương lên phía Bắc để tạo điều kiện cho chủ lực quân Pháp bố trí ở quanh khu vực Puntôvich đánh tiêu diệt. Mục đích chỉ duy nhất của Napoléon trong lần dàn quân này quyết bẻ gãy cuộc tấn công của quân đối phương. Vì vậy, ông cho tập trung quân thành những gọng kìm lớn để giáng đòn quyết định và sườn quân liên minh khi có thời cơ hoặc khi chúng đã bộc lộ sơ hở sa vào cạm bẫy của ông. Cuối cùng ông cũng không quên dành lại cho trận đánh một số tiểu đoàn cận vệ mạnh ở phía sau làm lực lượng dữ trữ (đội dự bị mạnh).

Thế là Napoléon đã bày xong thế trận vận động tấn công tiêu diệt quân liên minh với ba thế rất lợi hại: thế kìm (cánh quân của Lannes, Murat và Bécnađốt), thế công (cánh quân của của Sout và Ney), thế chặn ( cánh quân của Đavout). Că ba thế này sẽ cùng nhau phát huy tác dụng dưới sự điều khiển của Napoléon Bonaparte.Đặc biệt các mũi tên tấn công của quân Pháp ở Austerlitz hình thành nên ba thế trên đều nhằm vào hai bên sườn quân liên minh mà công kích, khi đã dồn được chín vạn quân liên minh vào bẫy. Theo Napoléon thì đây vừa là sơ hở, vừa là điểm yếu của đối phương, công kích vào đó thì dễ chia cắt được đội hình của đối phương dễn tạo ra thời cơ đánh tiêu diệt.Đêm ngày 1/12/1805 đã tới, cả hai bên đều đã triển khai xong lực lượng và chỉ chờ đến rạng sáng là bước vào cuộc đọ sức quyết liệt này.Và sáng ngày 2 tháng 12, khi trời chưa sáng rõ, người ta đã thấy Napoléon rời bản doanh ra phía trước, và theo như lời của những nhà chép sử đương thời thì Napoléon đích thân ra chỉ huy trận đánh lịch sử này từ đầu đến cuối, và hầu hết các Nguyên soái có tên tuổi của ông đều có mặt đông đủ như: Lannes, Murat, Bécnađốt ở cánh trái với ba khối quân Sout, Ney ở cánh giữa với hai khối quân tập trung lớn chủ yếu cùng với đại bộ phận số pháo có trong trận đánh này; Đavout ở cánh phải.

Đầu trận đánh

Trời sáng rõ, từ trên đài chỉ huy của mình, Napoléon thấy quân liên minh Nga – Áo từ phía Austerlitzs chia làm 7 mũi lớn ào ào tấn công về phía quân Pháp, đại bộ phận tấn công chính ở Phía Nam, khoảng giữa cao điểm Pờrátden và dải hồ Đatran. Còn quân Pháp thì sẵn sàng và vẫn kín đáo nấp sau những chướng ngại thiên nhiên, hình thành thế trận hình cánh cung.

Kỵ Binh Pháp dàn trận

 

Qua tình huống trên, Napoléon nhận định ý định tiến công của quân Nga – Áo đúng như ông đã phán đoán và nắm chắc. Đặc biệt ông lấy làm lạ rằng quân Nga-Áo không lên chiếm cao điểm Pờrátden mà còn để hở hai bên sườn, nhất là bên sườn trái. Hơn nữa ông còn phát hiện ra được một điểm nữa là trong quá trình tiến công, các mũi của quân liên minh dù ở cánh trái hay ở cánh phải đều không có sự phối hợp lẫn nhau gì cả. Từ trên cơ sở nhận định đó, một mặt Napoléon hạ lệnh cho Sout và Ney lặng lẽ đưa quân và pháo lên chiếm lĩnh cao điểm Pờrátden, mặt khác ông giả đò để ngỏ sườn phải, không phòng giữ và cố ý giấu kín sườn trái để dụ quân Nga – Áo tiến sâu hơn nữa; do đó ông đã lệnh cho Davout đánh cầm chừng để thu hút chủ lực đối phương về phía đó.

Cao điểm của cuộc chiến

Khi thấy quân liên minh đã bộc lộ sơ hở và có những mũi đã đi qua cao điểm, Napoléon quyết định mở đợt tiến công quyết liệt vào sườn những khối quân chủ lực Nga – Áo đang đi qua dưới chân phía Nam cao điểm. Bằng hỏa lực tập trung và mãnh liệt của pháo binh đặt ở trên cao điểm, Napoléon ngay từ phút đầu đã gây nên nhiều thiệt hại lớn cho bên liên quân. Đội hình tiến công của quân Nga – Áo bỗng trở nên rối loạn. Tiếp sau cuộc nã pháo dữ dội, bất ngờ và kéo dài không lâu này, dưới sự yểm trợ của pháo binh, bộ binh và kỵ binh từ trên ba hướng chia làm nhiều mũi bắt đầu xung phong ra chia cắt đối phương từ hướng Bắc đánh ra, từ trên cao điểm (hướng tập trung ở cánh giữa) đánh xuống, từ hướng Nam đánh lên.

Bộ binh Pháp tấn công Kỵ binh Nga

 

Thế là bằng những lực lượng tập trung lớn của mình ở trên cao điểm đã chiếm lĩnh được từ trước và ở quanh khu vực Puntôvich và bằng mũi hiểm đánh chặn của Đavout, Napoléon đã đè bẹp được đại bộ phận quân chủ lực đối phương. Cho đến lúc này, rõ ràng ba thế lúc ban đầu của Napoléon đã tạo nên thế diệt mạnh như bão cuốn.Số phận của chín vạn quân liên minh vì thế đã được định đoạt. Đội kỵ binh cận vệ Nga hầu như bị tiêu diệt ngay từ lúc trận chiến đấu ở vào giai đoạn quyết liệt, do đó sau một trận giao chiến với đội kỵ binh cận vệ của Napoléon kỵ binh Nga đã quay lui. Lập tức kỵ binh Pháp xung phong vào đội hình liên quân, chia cắt đối phương ra mà tiêu diệt, sau đó lại truy đuổi tàn quân Nga – Áo đến tận làng Austerlitsz.

Kết thúc cuộc chiến

Quân Nga do tướng Buxoveden chỉ huy khi rút lui thì lại tiến hành thiếu khẩn trương và thiếu nghệ thuật, đến nỗi làm cho hàng nghìn binh lính thuộc quân đoàn chủ của y bị đuổi dồn đến vùng hồ.Sau khi nắm được cuộc điều quân ấy của Buxơveđen, Napoléon đã ra lệnh nã đại bác lên mặt nước đóng băng,hàng trung đoàn bị chết đuối hoặc làm mồi cho đạn đại bác của quân Pháp tiêu diệt. Còn một số khác thì đầu hàng. Khi trận đánh sắp kết thúc,Napoleon đã tung nốt những tiểu đoàn dự trữ mạnh của mình ra để giải quyết gọn chiến trường.

Quân Nga-Áo bị dồn xuống hồ nước

 

Đêm đến thì mọi việc đã xong xuôi, chừng 15000 quân Nga – Áo bị giết, 20000 bị bắt cầm tù, hầu hết pháo của liên quân bị tước và nhất là đội quân Nga – Áo đã bị tiêu diệt thực sự, số tàn quân bỏ chạy tán loạn đi tứ phía, bỏ lại rất nhiều kho tàng quân trang, quân dụng và lương thực. Đó là những nét lớn về kết quả của cuộc chiến thắng đó. Quân Pháp bị thiệt mất ngót 9 nghìn người .

Hoàng đế Áo đến cầu hoà với Napoleon

Ngày mùa đông ngắn ngủi ấy kết thúc.Mặt trời rực rỡ chiếu từ buổi sớm đã lặn và nhờ có bóng tuối của đêm đen Aleksanđr và François đã thoát chết và không bị bắt. Aleksanđr mất tự chủ run cầm cậo như sắp lên cơn sốt rét và khóc lóc. Mấy ngày sau, còn phải chạy trốn cực nhục, khốn đốn hơn nữa. Nguyên soái Kutuzov của quân Nga đã phải vất vả lắm mới thoát khỏi tay quân Pháp.Tướng Weyrother bị thương nặng và chết sau trận đánh vài tháng .Vài ngày sau,nước Áo đầu hàng Napoleon. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của liên minh chống Pháp.

 

F. Engels đánh giá: ”Trận đánh Austerlitz được coi là một trong những chiến trường lớn nhất của Napoléon và là bằng chứng không thể bác bỏ được về thiên tài quân sự có 1 không 2 cua Napoléon,bởi vì nếu như những sai lầm của quân liên minh đã rõ ràng là nguyên nhân chủ yếu làm họ thất bại thì con mắt phát hiện ra được những lầm lẫn đó ,lòng kiên nhẫn chờ đợi cho lầm lẫn đó chín mùi để quyết tâm giáng đòn quyết định, sự mau lẹ cực kỳ như chớp nhoáng để đánh tan kẻ địch, tất cả những cái đó của Napoléon đáng cho ta hoàn toàn khâm phục và không đủ lời khen ngợi. Trận Austerlitz là một sự kỳ diệu về chiến lược mà người ta sẽ không bao giờ quên được chừng nào còn chiến tranh.”

Trận Jena-Auerstad (1806)

Ngày 14/10/1806, trận đánh Jena bắt đầu và nó đã quyết định số phận nước Phổ. Trận đánh nổ ra ngay sau khi mặt trời mọc. Nó rất ác liệt và kéo dài. Lúc đầu, quân Phổ và đồng minh Saxony đánh rất gan dạ, ngoan cường. Sau đó là vừa đánh vừa lui. Nhưng Napoleon ra lệnh cho quân Pháp từ hai cánh mở gọng kềm bao vây quân Phổ, pháo binh phối hợp chặt chẽ với bộ binh, nhanh chóng chiếm ưu thế trên chiến trường. Quân Phổ tuy rất gan lì nhưng không cơ động và cứng nhắc. Do khéo léo chỉ huy các quân đoàn tinh nhuệ của mình nên Napoleon đã thực hiện được kế hoạch của mình từng điểm một.

Ngay khi quân Phổ rút lui, kị binh của Murat nhanh chóng được tung ra truy kích. Kị binh Pháp đang hăng, chém sạch cả những kẻ xin hàng. Quân Phổ hoàn toàn bị đánh bại, chỉ có một bộ phận nhỏ là rút lui có trật tự, còn lại là bị giết chết, bị thương hoặc bị bắt ( phần này chiếm số đông nhất ).

Cùng ngày hôm đó, quân đoàn của Davout đã đánh tan đạo quân của nguyên soái Brunswick ở Auerstad. Trận đánh đó, quân Pháp mất chừng 7000 quân và quân Phổ mất khoảng 13000 quân. Còn ở Jena, quân Pháp mất 5000 quân và quân Phổ tổn thất 25000 quân. Như vậy, chỉ trong một ngày, toàn bộ quân chủ lực Phổ đã bị tiêu diệt.

Ngày 27/10/1806, 19 ngày sau khi chiến tranh bùng nổ và 13 ngày sau trận Jena và Auerstad, Napoleon ca khúc khải hoàn tiến vào Berlin giữa tiếng nhạc chào mừng.

Trận Eylau (1807)

Ngày 8/2/1807, ở gần Eylau, quân Pháp và Nga đã đánh nhau một trận dữ dội. Khi trận đánh nổ ra, quân Nga điều ra trận một lực lượng pháo binh đông gấp đôi quân Pháp và các thống chế Pháp còn chưa có đủ ở trận địa. Thống chế Davout dẫn quân đoàn của mình xông thẳng vào đội hình quân Nga, chém giết dữ dội. Tướng Augereau dẫn một đạo quân Pháp cũng tiến đánh ở tuyến giữa khiến quân Nga phải rút lui.

Nhưng ngay sau đó, pháo binh Nga đã chống trả dữ dội và diệt gần hết lực lượng của Augereau. Chính bản thân của Napoleon cùng với bộ binh ở giữa trận địa cũng suýt chết vì đạn pháo rơi như mưa ở quanh ông. Napoleon biết chỉ có sự có mặt của hoàng đế mới giữ vững tinh thần cho binh lính trong tình thế này khủng khiếp này. Lúc đó, đoàn kị binh cossack đang phản công với khí thế như triều dâng. Họ đã đánh tan tuyến phòng thủ của quân Pháp và áp sát sở chỉ huy mặt trận của Napoleon.

Đúng lúc đó, Napoleon nở một nụ cười khó hiểu trên khuôn mặt sạm đen vì khói thuốc súng. Khi quân Nga đã đến gần, ông ra lệnh cho đội cận vệ hoàng gia Pháp lao vào cuộc chiến này. Đó là lực lượng ưu tú nhất trong quân đội Pháp. Hai bên Pháp-Nga lao vào nhau và chém giết dữ dội. Rốt cuộc, quân Pháp vẫn giữ vững trận địa và trung tâm trận đánh chia thành nhiều điểm trên chiến trường rộng mênh mông.

Trận đánh đó, cả hai bên Pháp và Nga đều tổn thất nặng nề. Napoleon từ trận địa trở về, nói:

-Trong cuộc đời binh nghiệp của tôi, để cho kẻ thù cùng đứng ngồi ngang hàng, cùng chia hưởng vinh quang, đây là lần đầu tiên, nhưng sẽ không có lần thứ hai.

Trận Friedland (1807)

Trận đánh Friedland diễn ra vào ngày 14/6/1807.

Vào lúc 3 giờ sáng, thống chế Lannes nhận thấy quân Nga đã tiến vào thành phố nhỏ Friedland từ hôm trước và đang chuẩn bị vượt hữu ngạn sông Alle. Lập tức Lannes hạ lệnh nổ súng. Cùng lúc đó, viên thống chế này cũng phái các sĩ quan tùy tùng đến báo cáo với Napoleon. Lập tức, Napoleon chỉ thị cho tất cả các lực lượng cấp tốc hành quân ra chiến trường và đích thânNapoleon cũng ra chiến trường. Sa hoàng Nga Alexandre do muốn thắng nhanh nên hối thúc tổng tư lệnh Benningsen xua quân tấn công một cách vội vã. Napoleon nhanh chóng nhận ra sai lầm tai hại của đối phương. Vì quá vội nên quân Nga đã ùn tắc thành một khối lớn ở khuỷu sông Alle. Không do dự, Napoleon liền cho phá hỏng chiếc cầu nhỏ bắc qua sông, sau đó ông giao cho quân đoàn của Ney nhiệm vụ nguy hiểm là tiến công thẳng vào quân chủ lực đối phương. Quân Nga đã chống lại rất ngoan cường và đã tiêu diệt hoàn toàn một phần quân đoàn của Ney. Sai lầm của Bennigsen đã dẫn đến thất bại hoàn toàn. Quân Nga phải nhảy xuống sông để tránh bị tiêu diệt và hàng ngàn lính Nga đã chết đuối. Chỉ có một số nhỏ chạy trốn được. Quân Pháp chiến thắng, thu được vô số pháo của đối phương.

Trong trận đánh này, quân Nga mất hơn 20000 quân và quân Pháp mất không quá 8000. Thảm bại ở Friedland đã buộc Sa hoàng Nga Alexandre kí vào hòa ước Tilsit, một hòa ước rất nhục nhã.

Trận Essling-Aspern (1809)

Trận Essling-Aspern là 1 thất bại của quân Pháp. Lúc này quân Pháp định vượt sông Danube từ đảo Lobau bằng cầu giã chiến. Nhưng khi đang vượt sông thì bị quân Áo phản công. Chỉ có 2 binh đoàn đã vượt sông : binh đoàn của Massena và của Lannes. Thế là 24 000 ngưòi của 2 binh đoàn này bị 95 000 quân Áo ép vào bờ sông trong khi binh đoàn Davout không qua sông tiếp trợ được do nước lũ làm hỏng cầu. Cuối cùng Napoleon phải hạ lệnh rút lui sau khi quân Pháp mất khoảng 20 000 người.

Thống chế Lannes cũng bị 1 viên đạn đại bác bắn đứt 1 chân. Nhưng chỉ bị thương, hơn 10 ngày sau mới chết do bị nhiễm trùng máu…

Hơn 1 tháng sau Napoleon thắng lớn quân Áo ở Wagram cách đấy không xa bắt nước Áo phải ký hoà ước. Thất bại Essling được xí xoá, nhưng thống chế Lannes thì không thể thay thế được.

Trận Wagram (1809)

Sau thất bại ở Aspern-Essling, cả Châu Âu đã phấn khởi reo mừng. Nước Áo mở tiệc ăn mừng chiến thắng, giáo hoàng Pius VII đã nhận xét rằng thảm bại Aspern-Essling là sự trừng phạt của Chúa trời dành cho kẻ tham lam, bạo ngược và xúc phạm giáo hội.

Napoleon đã rất tức giận khi nghe những điều này. Ông ra lệnh cho quân đội Pháp chiếm đóng Roma, trụ sở cuả giáo hoàng, cho bắt giáo hoàng và tịch thu sạch đất đai của Tòa Thánh đã được thừa hưởng suốt 1500 năm. Sau khi giải quyết xong chuyện giáo hoàng, Napoleon chuẩn bị nốt những việc còn lại để chuẩn bị cho chiến dịch sắp tới.

Ngày 5/7/1809, Napoleon cho binh lính vượt sông Danube, chiến dịch mới bắt đầu. Cuộc vượt sông diễn ra theo trật tự hoàn hảo. Trận đánh ngày 5/7 đã diễn ra không đúng như thời gian và địa điểm dự kiến của đại công tước Charles, tổng tư lệnh quân Áo. Không bao giờ hành động như kẻ địch dự tính, Napoleon lấy đó làm nguyên tắc. Trong trận đánh này quân Pháp có 550 cỗ pháo và quân Áo có 500 khẩu. Trận đánh kéo dài đến tận đêm, đó là giai đoạn ác liệt nhất. Napoleon ở giữa trận đánh với các thống chế như Davout, Massena…Thật hiếm thấy trận đánh nào, kể từ trận Austerlitz, mà các thống chế của Napoleon lại hành động chính xác như trận này. Sau một đợt pháo khủng khiếp, quân đoàn của McDonald ( vừa thay thống chế Lannes ) gồm 26 tiểu đoàn đã dàn thành một hình vuông mỗi bề 1000 mét, đã phá vỡ trung tâm của quân Áo với tổn thất không nhỏ. Nhưng các đội dự bị đã kịp thời bổ sung lực lượng. Xa hơn nữa, ở hướng Bắc, Davout đã nhận được lệnh của hoàng đế, lấy làng Wagram nằm ở các điểm cao làm mục tiêu. Và viên thống chế này đã chiếm được bằng một trận cường tập, và thế là quyết định sự thất bại của quân Áo. Quân Áo mặc dù bị đánh bật khỏi các điểm cao nhưng vẫn rút lui trật tự, chỉ có một vài bộ phận là rối loạn.

Thảm bại này khủng khiếp không kém gì thảm bại ở Austerlitz. Trong hai ngày 5/7 và 6/7, quân Áo tổn thất lên đến 36000 ngưới. Quân Pháp mất chừng 30000 quân. Mặc dù phải trả giá đắt nhưng Napoleon vẫn rất hài lòng. Một thời gian sau, quân Áo và Pháp kí hiệp định đình chiến. Nưóc Áo bại trận phải bồi thường chiến phí rất lớn và mất gần hết đất đai. Chiến dịch năm 1809 kết thúc.

Trận Borodino (1812)

Vào những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, bằng các cuộc hành binh liên tiếp của mình, Napoléon đã tạo dựng được những chiến thắng vang dội làm cho các nước châu Âu phải hoảng sợ. Năm 1812 Napoléon quyết định tiến công nước Nga.

Chiếm được nước Nga cũng có nghĩa là là Napoléon sẽ làm chủ được toàn bộ châu Âu. Vì vậy trong cuộc viễn chinh này Napoléon đã chuẩn bị một đội quân lớn nhất thời bấy giờ gồm 60.8 vạn quân, 1372 khẩu pháo… Với lực lượng đó. Napoléon giữ lại 16.5 vạn quân làm lực lượng dự bị triển khai từ sông Ôđe đến sông Enbơ. Lực lượng còn lại với 44.3 vạn quân, ông ta triển khai trên một tuyến dài 300 km và chuẩn bị vượt biên giới Nga.

Ngày 24-6-1812, Napoléon cho quân Pháp vượt sông Nêman bất ngờ mở đầu cuộc tiến công đánh chiếm nước Nga. Ngày 28-6-1812, chiếm Vinnô và đầu Tháng 8 chiếm Smôlenxcơ. Quân Nga dưới quyền chỉ huy của tướng Bagratiôn bà Bakkai đã chiến đấu một cách dũng cảm nhưng do so sánh lực lượng quá chênh lệch nên buộc phải rút lui từng bước.

Trận Smolenxcơ

 

Việc mất Smôlenxcơ đã dấy lên làn sóng bất bình của nhân dân Nga. Dưới áp lực của quần chúng nhân dân, nhất là tầng lớp qúy tộc Aleksanđr Đệ nhất buộc phải cử tướng Kutuzốv làm Tổng tư lệnh quân đội. Ngày 29 Tháng 8 năm 1812, Kutuzốv nhận chức Tổng tư lệnh. Tình hình nước Nga lúc đó hết sức khó khăn. Quân Pháp với lực lượng lớn áp đảo đã tiến đến gần Moskva, chỉ còn cách 180 km mà ở đó Napoléon dự định sẽ kết thúc chiến tranh. Ý định của Napoléon là phải tiêu diệt được lực lượng chủ yếu của quân Nga trong một trận quyết chiến chiến lược. Biết được ý đồ ấy, Kutuzốv quyết định cho quân Nga tiếp tục rút sâu vào vùng trung tâm đất nước. Nhưng cuộc rút lui lần này khác với những cuộc rút lui trước đấy. Kutuzốv thực hiện chính sách vườn không nhà trống, vừa rút lui vừa tổ chức ngăn chặn tiêu hao lực lượng quân Pháp; buộc quân Pháp phải tiến quân trong điều kiện căng thẳng và bị tổn thất. Kutuzốv một mặt tăng cường bổ sung lực lượng hậu vệ, một mặt cho chiếm lĩnh những địa hình có lợi và tổ chức các trận phục kích, tiến công nhỏ nhằm làm tiêu hao quân Pháp, phá vỡ kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của dối phương. Bên cạnh đó Kutuzốv cho tập đoàn quân 3, tập đoàn quân Danube và các tập đoàn độc lập khác đang bảo vệ hướng Peterburg, tiến hành các hoạt động tác chiến tích cực ở sâu trong hậu phương quân Pháp. Ngoài ra, Kutuzốv còn tổ chức một số đơn vị bảo vệ các trục đường giao thông lớn. Đặc biệt ông còn xây dựng một lực lượng dự bị mạnh. Với các biện pháp trên, Kutuzốv đều nhằm một mục đích cuối cùng là cải thiện tình hình bất lợi, tạo điều kiện thuận lợi nhất để quân Nga có thể chuyển sang phản công.

Đầu Tháng 9, tình hình chiến tranh đã có những chuyển biến mau lẹ. Napoléon không những không thực hiện được ý đồ giao chiến trực tiếp với lực lượng chủ yếu của quân Nga mà còn bị tiêu hao một cách đáng kể. Việc vận chuyển hậu cần của quân Pháp gặp khó khăn do phải di chuyển liên tục. Lúc đó, lực lượng trực tiếp tiến công của Napoléon chỉ có 13 vạn quân với 587 khẩu pháo, còn Kutuzốv đã tập trung được một lực lượng gồm 11.5 vạn quân và 640 khẩu pháo. Xét tương quan lực lượng giữa 2 bên gần như tương đương. Chính trong điều kiện đó, Kutuzốv đã quyết định tiến hành trận quyết chiến chiến lược.

Kutuzov và các tướng Nga trong trận Borodino

 

Kutuzốv chọn một khu vực địa hình kéo dài trên chính diện rộng 8 km tại khu vực thôn Bôrôđinô để tiến hành trận quyết chiến chiến lược. Đây là khu vực có địa hình phức tạp, thuận lợi cho việc bố trí hỏa lực của quân Nga. Bên phải trận địa giáp vùng rừng rậm khó vượt qua phía Tây Nam thôn Utisa. Tại chính diện cánh phải trận địa có sông Klotska với vùng đầm lầy án ngữ đường tiến công của quân Pháp. Để tăng cường cho đội hình chiến đấu, Kutuzốv cho xây dựng nhiều công sự với các ổ đề kháng vươn ra phía trước. Toàn bộ khu vực trận địa, được quân Nga bố trí theo hai dải, dải một có các quân đoàn bộ binh và dải hai có các quân đoàn kỵ binh. Các quân đoàn bộ binh cũng được bố trí thành từng khối tiểu đoàn trên hai tuyến. Trước trận địa, Kutuzốv còn bố trí các đội thiện xạ chính diện để bảo vệ đội hình. Tại trung tâm trận địa về phía sau, Kutuzốv thành lập các đội dự bị bao gồm quân đoàn kỵ binh của Uvarốv và đội quân Kazak Platốv cùng đội dự bị chung là quân đoàn bộ binh cận vệ số 5. Ngoài ra còn có đội dự bị pháo binh cũng ở phía sau đội hình.

Về phía quân Pháp, Napoléon quyết định mở cuộc tiến công chủ yếu vào trung tâm và cánh trái đội hình quân Nga nhằm bao vây dồn quân Nga về phía sông Moskva để tiêu diệt. Napoléon còn tổ chức 2 hướng đột kích vào cạnh sườn trận địa nằm lôi kéo lực lượng chủ yếu quân Nga từ trung tâm trận địa vào cuộc chiến.

5 giờ sáng ngay 7-9-1812, quân Pháp bắt đầu tiến công. Lúc đầu do có lực lượng ưu thế nên quân Pháp đã chiếm được thôn Bôrôđinô nhưng không phát triển tiếp theo được do quân Nga đánh trả dữ dội. Nhìn chung các cuộc đột kích đầu tiên của quân Pháp nhằm lôi kéo quân Nga di chuyển đội hình về hai cạnh sườn đều không đạt kết quả.

Đến 6 giờ, quân Pháp chuyển sang tiến công trận địa phòng ngự quân Nga ở thôn Semenovski nhưng cũng bị đẩy lùi. Ngay sau đó, Napoléon tập trung 8 sư đoàn bộ binh, 3 quân đoàn kị binh và 120 pháo mở cuộc đột kích lần thứ hai. Quân Pháp lúc đầu chiếm được phía Nam khu vực phòng ngự do tướng Bagratiôn chỉ huy, nhưng sau đó quân Nga phản kích chiếm lại. 8 giờ, quân Pháp mở cuộc công kích lần thứ 3, nhưng lại bị thất bại. Trong khi đó 2 sư đoàn kỵ binh Pháp tiến công trận địa pháo do Raévski chỉ huy cũng không đạt kết quả. Như vậy, cả 3 cuộc công kích của quân Pháp vào khu vực chủ yếu trận địa của quân Nga đã thất bại.

Ở cánh trái trận địa quân Nga, một quân đoàn Pháp sau 3 giờ công kích liên tục đã chiếm được thôn Utisa. Thắng lợi ở Utisa đã củng cố quyết tâm của Napoléon. Ông tiếp tục mở 4 cuộc công kích vào trận địa pháo của Raévski và khu vực phòng ngự ở Semenovski. Cuộc chiến tại đây diễn ra rất quyết liệt. Quân Pháp và Nga giành giật nhau các khu vực trận địa. Trong đợt công kích lần thứ 6, Napoléon tập trung trên một đoạn hẹp rộng 1.5 km tới 100 khẩu pháo, và 4.5 vạn quân. Quân Nga có khoảng 1.5 vạn quân và 200 khẩu pháo đã kháng cự lại một cách rất quyết liệt. Trong lần công kích này của quân Pháp, Bagratiôn đã hy sinh nhưng tinh thần dũng cảm và ý chí của ông đã thôi thúc những người lính Nga tiếp tục chiến đấu. Lệnh của Kutuzốv “giữ vững trận địa đến người cuối cùng” đã được thông báo cho toàn bộ các đơn vị quân Nga. Tuy nhiên, do lực lượng quân Pháp chiếm ưu thế nên Kutuzốv quyết định cho quân rút lui theo khe núi ở thôn Semenovski để củng cố lực lượng.

Cái chết của tướng Bagration

 

Sau khi chiếm được một số khu vực phòng ngự, quân Pháp tập trung lực lượng mở đợt tiến công và chiếm được khu vực phía Tây thôn Semenovski. Tại đây, trận địa pháo của Raevski đã ở trước mặt quân Pháp. Napoléon tung hầu hết lực lượng dự bị và đội cận vệ của mình vào chiến đấu. Trước tình thế nguy hiểm đó, Kutuzốv lệnh cho kỵ binh Nga tiến công đánh vào cánh trái quân Pháp, đồng thời sử dụng đội kỵ binh Kazak tiến công đoàn xe vận tải của đối phương. Kỵ binh Nga đã chọc thủng được đội hình quân Pháp buộc Napoléon phải điều lực lượng về cánh trái để duy trì cuộc tiến công vào trận địa pháo của Raevski. Chớp thời cơ, Kutuzốv tăng cường lực lượng ở trung tâm và cánh trái bằng cách điều lực lượng dự bị và lực lượng từ cánh phải dồn lại.

Đến 14 giờ, Napoléon tiếp tục cho lực lượng tiến công trận địa pháo quân Nga và đưa đội dự bị cuối cùng vào chiến đấu. Mặc dù bị thiệt hại nặng nề, nhưng đến 15 giờ 30 phút, quân Pháp đã chiếm được trận địa. Song việc chiếm trận địa pháo của Raevski không có ý nghĩa. Lúc đó, quân Nga đã bỏ khu vực phòng ngự ở cánh trái và trung tâm lên chiếm lĩnh trận địa mới cách đó từ 1 đến 1.5 km. Như vậy, quân Nga mặc dù bị mất một số khu vực nhưng vẫn giữ được vững đội hình chiến đấu. Trong khi đó quân Pháp sau nhiều lần công kích, lực lượng bị tiêu hao quá lớn buộc Napoléon phải ngừng công kích, ra lệnh cho quân Pháp rút về vị trí xuất phát tiến công. Đó cũng là biểu hiện sự bế tắc của Napoléon trong trận này.

Trong trận này, quân Pháp bị thương vong 3.2 vạn người. Phía quân Nga chết và thương vong 4.3 vạn.Nếu tính trung bình mỗi giờ có 8.500 binh sĩ của cả hai bên phải bỏ mạng tại chiến trường, một trung đội trong một phút. Có những đơn vị mất gần 80% quân số.Đây được coi là trận đánh lớn thứ 3 và đẫm máu nhất trong các cuộc chiến tranh của hoàng đế Napoleon I. Ý định của Napoleon nhằm tiêu diệt hoàn toàn quân Nga trong trận quyết chiến chiến lược không đạt được.

Trận Bôrôđinô cho thấy nghệ thuật chỉ huy tài giỏi của vị thống soái Nga Kutuzốv. Trước hết, phải thấy rằng việc lựa chọn thời cơ và lựa chọn địa điểm tiến hành trận quyết chiến chiến lược của Kutuzốv là khá chính xác. Kutuzốv quyết định tiến hành trận quyết chiến chiến lược đầu tiên khi mà tương quan lực lượng hai bên đã cân bằng. Việc lựa chọn địa hình trận quyết chiến đã buộc quân Pháp phải tiếng công trên một khu vực phức tạp và về phía quân Nga, việc tổ chức phòng ngự và phản công hoàn toàn thuận lợi, Việc xây dựng đội hình chiến đấu có chiều sâu và luôn được giữ vững trong suốt quá trình trận đánh đã tạo điều kiện cho quân Nga phát huy được sức mạnh của bộ binh và pháo binh, hạn chế được sức mạnh đột kích của quân Pháp. Chính vì thế, kỵ binh Pháp đã bị thiệt hại nặng nề trong trận đánh. Với các cứ điểm pháo binh xen kẽ trên trận địa cùng việc tổ chức đội dự bị pháo binh lớn được Kutuzốv đặc biệt chú ý đã giúp cho sự đề kháng mạnh của đội hình chiến đấu quân Nga.

Napoleon và quân Pháp vui mừng khi quân Nga rút lui

Đến 18 giờ, sau khi tổ chức củng cố lại trận địa, Kutuzốv vẫn động viên quân Nga sẵn sàng đánh bại các cuộc tiến công của quân Pháp đồng thời chuẩn bị cho cuộc tiến công quân địch vào sáng hôm sau. Về phía quân Nga cũng bị tổn thất lớn qua các đợt công kích liên tục của quân Pháp khiến Kutuzốv phải suy nghĩ. Ông cho rằng dù đã đánh bại các cuộc công kích của quân Pháp, song cho đến thời điểm này, lực lượng chủ yếu của quân Nga vẫn cần phải được bảo toàn, chờ thời cơ dành chiến thắng quyết định. Bằng sự cân nhắc trận trọng đó, Kutuzốv quyết định cho quân Nga rut khỏi Borodino.

Quyết định không ở lại Bôrôđinô và tiếp tục rút lui để bảo toàn lực lượng đã buộc Napoléon phải kéo dài cuộc hành binh. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân Nga chuyển sang thế phản công có tính chất quyết định. Đó là quan điểm chiến lược đúng đắn nhất của Kutuzốv. Nếu như Napoléon cho việc kết thúc chiến tranh chỉ bằng một cuộc quyết chiến chiến lược thì ngược lại, Kutuzốv cho rằng phải tiến hành nhiều cuộc quyết chiến chiến lược; trận trước tạo điều kiện cho trận sau và tất cả dành cho trận thắng cuối cùng. Trận đánh ở Bôrôđinô đã báo hiệu sự thất bại hoàn toàn của đội quân xâm lược Pháp và mở đầu cho thắng lợi cuối cùng của quân Nga.

Tổng hợp Tâm Nghĩa

NAPOLÉON BONAPARTE

Napoléon Bonaparte

HOÀNG ĐẾ NAPOLÉON BONAPARTE (1769 – 1821 )

Đối với các binh lính mà ông chỉ huy ngoài mặt trận, Napoléon được gọi bằng một tên thân mến là “Viên Hạ Sĩ nhỏ bé” (the Little Corporal). Napoléon là một vị tướng chỉ cao 1 thước 57 (5 ft 2 in.), chiều cao trung bình của một người dân Pháp vào thời đại đó, ông thấp hơn các tướng lãnh dưới quyền và các chính khách đương thời của châu Âu, nhưng Napoléon là một con người đầy nghị lực và rất tham vọng: ông là một nhà cai trị xuất chúng, đã đồng thời kiểm soát hệ thống chính trị, chính sách đối ngoại, các công việc đối nội, ngành báo chí của toàn thể nước Pháp. Napoléon đã nghĩ ra rất nhiều cải cách hữu ích kể cả việc thiết lập nên một chính quyền trung ương vững mạnh, hữu hiệu, đã duyệt xét lại và tổ chức lại hệ thống luật pháp của nước Pháp thành bộ luật hữu lý. Nhiều công trình cải tiến hành chính của Napoléon vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay trong các cơ chế chính quyền của nước Pháp và tại các quốc gia theo ảnh hưởng và văn minh Pháp.

Napoléon đã tự phong làm Hoàng Đế của nước Pháp và đã tạo ra một đế quốc trải rộng khắp miền tây và miền trung của châu Âu. Hoàng Đế Napoléon đã là chủ nhân của toàn thể châu Âu trong 16 năm: ông đã khéo léo sử dụng các người dưới quyền có khả năng và đã tưởng thưởng họ bằng các huy chương, cấp bậc, tài sản và các danh hiệu quý tộc. Napoléon đã trực tiếp điều khiển các trận chiến vĩ đại và rất phức tạp, điều này chứng tỏ ông là một thiên tài quân sự, có lẽ vĩ đại bậc nhất trong Lịch Sử của Nhân Loại.

1- Thuở thiếu thời của Napoléon Bonaparte.

Napoléon sinh ngày 15-8-1769 tại Ajaccio, trên hòn đảo Corsica không bao lâu sau khi hòn đảo này được chính quyền Genoa bán cho nước Pháp. Napoléon là người con thứ tư trong gia đình 8 người con và là con trai thứ hai của ông Carlo Buonaparte và bà Letizia Ramolino. Ông Carlo là một luật sư, có dòng dõi quý tộc của xứ Tuscan và dòng họ này đã di cư và sống trên đảo Corsica vào thế kỷ 16. Ông Carlo đã cưới bà Letizia, một thiếu nữ 14 tuổi trẻ đẹp và là người có ý chí mạnh. Họ đã phải nuôi dưỡng 8 người con trong một hoàn cảnh eo hẹp về tài chính. Khi người Pháp chiếm đóng đảo Corsica thì một số người dân địa phương đã nổi lên chống lại chính quyền Pháp, thủ lãnh là ông Paoquale Paoli. Ông Carlo Buonaparte đã tham gia vào đảng phái của ông Paoli nhưng khi ông thủ lãnh này bỏ trốn, ông Carlo đã hợp tác với người Pháp. Nhờ sự bảo trợ của vị thống đốc đảo Corsica, ông Carlo được bổ nhiệm năm 1771 làm phụ thẩm (assessor) của khu vực tư pháp Ajaccio. Năm 1778, ông Carlo đã xin được phép cho 2 con trai lớn là Joseph và Napoléon theo học trường trung học d’Autun (College d’Autun).

Với nguồn gốc đảo Corsica và tên theo tiếng Ý là Napoleone Buonaparte, Napoléon là một đứa trẻ ngoại quốc có tình tình địa phương, rất ghét người Pháp là lớp người bị dân chúng coi là kẻ áp chế. Khi lên 9 tuổi, Napoléon được cha gửi theo học trường quân sự tại Brienne-le-Chateau, một tỉnh nhỏ gần Troyes.

Napoléon là một thiếu niên nhạy cảm, cô đơn, thường bị các bạn cùng lớp bắt nạt. Sự tàn nhẫn của các bạn học đã khiến cho Napoléon thu mình vào các mơ mộng về vinh quanh cá nhân và chiến thắng quân sự. Napoléon là một học sinh trung bình về phần lớn các môn học nhưng lại xuất sắc về Toán Học. Năm 1784, Napoléon được chọn lựa vào Học Viện Quân Sự Paris, theo binh chủng Pháo Binh. Trong thời gian Napoléon theo học tại thành phố Paris thì người cha qua đời vì bị ung thư bao tử vào tháng 2 năm 1785, để lại một gia đình sống trong hoàn cảnh eo hẹp. Tháng 9 năm đó, Napoléon tốt nghiệp Học Viện Quân Sự với cấp bậc Thiếu Úy, xếp hạng 42 trong số 58 tân sĩ quan. Sau đó, Napoléon phục vụ tại Trung Đoàn Pháo Binh Le Fère, trú đóng tại Valence. Đây là trường huấn luyện các sĩ quan Pháo Binh trẻ. Napoléon tiếp tục học hỏi bằng cách tìm đọc rất nhiều sách vở về chiến thuật và chiến lược, đọc các tác phẩm của Voltaire và Rousseau, và cũng đã tập viết văn, đúc kết lại thành “Các bức thư về Đảo Corsica” (Lettres sur la Corse) trong đó mô tả các cảm tình của mình đối với nơi sinh trưởng. Tháng 9-1786, Napoléon trở lại đảo Corsica và đã không tham gian vào Trung Đoàn Pháo Binh cho tới tháng 6-1788. Vào giai đoạn này, toàn thể nước Pháp đang sôi động vì các biến cố chính trị và cuộc Cách Mạng Pháp sắp sửa bùng nổ. Napoléon tin tưởng rằng chắc chắn sẽ có cuộc thay đổi chính trị tại nước Pháp.

2- Thời kỳ Cách Mạng Pháp.

Vào năm 1789, các nhà cách mạng Pháp đã hội họp tại Paris để thành lập nên Quốc Hội và chế độ quân chủ lập hiến, họ đã cho phép ông Pasquale Paoli trở về đảo Corsica và vào tháng 9 năm đó, Napoléon cũng quay về nghỉ tại đảo này. Tại quê hương, Napoléon muốn tham gia vào phong trào của ông Paoli nhưng vị lãnh tụ của phong trào chính trị địa phương này đã không tin tưởng chàng thanh niên Napoléon vì người cha, ông Carlo, đã không trung thành với lý tưởng tranh đấu cho địa phương. Do bị gạt ra khỏi nhóm đấu tranh và bị thất vọng, Napoléon trở lại nước Pháp và vào tháng 4-1791, được bổ nhiệm làm Trung Úy tại Trung Đoàn Pháo Binh thứ 4, đóng tại Valence. Chính tại nơi này, Napoléon đã tham gia vào Câu Lạc Bộ Jacobin, một hội chính trị cấp tiến, lúc đầu chủ trương một nước cộng hòa dân chủ. Napoléon đã trở nên chủ tịch của câu lạc bộ và trong các lần phát biểu, thường công kích các nhà quý tộc, các giám mục và các thầy tu.

Tháng 9 năm 1791, Napoléon xin nghỉ phép và trở về sống tại đảo Corsica trong 3 tháng, và trong thời gian này, ông đã phục vụ trong quân đội địa phương của đảo (the Corsican National Guard). Sự tham gia vào câu lạc bộ Jacobin và khuynh hướng chính trị cấp tiến của Napoléon đã gây nên sự bất hòa giữa Napoléon và ông Paoli, một người bảo hoàng. Sau khi cuộc Cách Mạng Pháp xẩy ra và Vua Louis 16 bị hành quyết vào tháng 1-1793, thì ông Paoli với chủ trương tách đảo Corsica ra khỏi nước Pháp, đã tuyên bố Napoléon là kẻ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Các người trong gia đình Buonaparte đành phải rời khỏi hòn đảo, chạy qua đất Pháp. Napoléon trở về phục vụ trong Quân Đội Pháp và đóng tại thành phố Paris.

Dưới chế độ quân chủ Bourbon, Napoléon có rất ít hy vọng được thăng cấp nhưng khi cuộc Cách Mạng Pháp lên cao độ vào ngày 10-8-1792 với chế độ quân chủ đã bị lật đổ và một nước Cộng Hòa được thành lập, thì đây là cơ hội rất tốt, có tính quyết định đối với cuộc đời của Napoléon và đã mở ra để Napoléon tiến lên đài vinh quang. Vào thời gian này, phần lớn các sĩ quan cao cấp của quân đội Pháp vẫn còn trung thành với nhà Vua nhưng Napoléon lại xét đoán thời cuộc theo một đường hướng khác. Nước Cộng Hòa Pháp hiện đang phải đối đầu với cuộc nội chiến và các cuộc chiến tranh với các nước lân bang. Nền Cộng Hòa đang rất cần các sĩ quan có khả năng và trung thành với chế độ mới.

Năm 1792, Napoléon mang cấp bậc Đại úy rồi phục vụ tại Nice vào tháng 6-1793. Vào thời gian này, Napoléon đã viết một bài báo, có tên là “Souper de Beaucaire” qua đó ông kêu gọi các người cộng hòa phải đoàn kết chung quanh nhóm Jacobin, là những người càng ngày càng trở nên cấp tiến hơn. Tới cuối tháng 8-1793, đạo quân của Hội Nghị Quốc Ước đã chiếm được thành phố Marseille nhưng đã bị chặn lại tại thành phố Toulon là căn cứ của các kẻ bảo hoàng, những người này đang kêu gọi sự trợ giúp của quân đội Anh. Trong một trận đánh tại Toulon, do vị chỉ huy Pháo Binh của đạo quân cách mạng bị thương và cũng do lời đề nghị của ủy viên chính trị Antoine Saliceti là một người đảo Corsica và là bạn với gia đình, Napoléon được đề nghị giữ chức chỉ huy trưởng Trung Đoàn Pháo Binh, được thăng cấp bậc Thiếu Tá vào tháng 9 và tham dự vào công cuộc vây hãm thành phố Toulon. Chính tại nơi này, Napoléon đã bộc lộ khả năng của một vị tướng tài và một nhà lãnh đạo uy dũng.

Vào tháng 12-1793, Napoléon ra lệnh đặt các khẩu đại bác ở trên cao, hướng về hải cảng Toulon và bắn vào các tầu chiến Anh, vì vậy hạm đội Anh phải rút lui và quân Cách Mạng Pháp đã chiến thắng tại Toulon. Do chiếm được thành phố này, Napoléon được phong chức Thiếu Tướng (Brigadier General) lúc mới 24 tuổi. Augustin de Robespierre, ủy viên chính trị của Quân Đội Cách Mạng Pháp, đã phải gửi cho người anh là Maximilien Robespierre khi đó là người đứng đầu chính quyền Pháp và là một trong các nhà lãnh đạo của thời kỳ khủng bố, một bức thư ca tụng “công lao ưu việt” của viên sĩ quan trẻ Napoléon Bonaparte, thuộc đảng Cộng Hòa. Napoléon đã thành công vì biết áp dụng khéo léo một kỹ thuật quân sự mới là Pháo Binh vào chiến tranh.

Tháng 2-1974, Napoléon được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng lực lượng Pháo Binh của đội quân Pháp trú đóng tại nước Ý, nhưng khi Maximilien Robespierre bị truất quyền vào ngày 9 tháng Thermidor (27-7-1794) thì Napoléon liền bị bắt về tội âm mưu và phản bội, vì đã là người được Robespierre che chở. Napoléon được trả lại tự do vào tháng 9 nhưng không được phục hồi quyền chỉ huy. Vào tháng 3 năm sau, Napoléon được đề nghị chức vụ chỉ huy lực lượng Pháo Binh miền Tây để chống lại lực lượng phản cách mạng tại miền Vendée nhưng ông đã từ chối vì cho là không có tương lai. Napoléon trở về Paris.

Cuộc sống tại thành phố Paris đối với Napoléon đã không dễ chịu, nhất là khi ông lại liên quan tình cảm với nàng Desirée Clary, con gái của một thương gia giàu có thuộc miền Marseille và là em của chị dâu Julie, người đã lấy anh Joseph. Napoléon đã không thể xin được một chức vụ nào vì nhiều nhà chính trị thời đó e ngại sự liên kết của Napoléon với nhóm “Montagnard” là những nhân vật cấp tiến của Hội Nghị Quốc Ước, họ cũng e ngại các tham vọng của Napoléon. Vì tài năng không được sử dụng, Napoléon dự định đi xa phục vụ cho việc canh tân quân đội của quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ.

3- Thời kỳ Hội Đồng Chấp Chính.

Vào tháng 5 năm 1795, khi Napoléon đang sống tại thành phố Paris thì Hội Nghị Quốc Ước đưa ra trưng cầu dân ý bản hiến pháp mới của năm thứ ba thuộc Nền Cộng Hòa Thứ Nhất, cùng với các đạo luật theo đó hai phần ba nhân viên của Hội Nghị Quốc Ước sẽ được bầu lại vào các hội nghị lập pháp mới. Cũng vào giai đoạn này, các người bảo hoàng muốn tái lập chế độ quân chủ, nên đã xúi giục dân chúng Paris nổi loạn, khiến cho cuộc trưng cầu dân ý không thể thực hiện được. Lúc bấy giờ, Tử Tước Paul de Barras là người được Hội Nghị Quốc Ước giao cho các quyền lực, đã không tin cậy vào vị chỉ huy quân đội của Bộ Nội Vụ và do được biết tới chiến thắng của Napoléon tại Toulon, nên đã chỉ định Napoléon làm chỉ huy phó. Ngày 13 tháng Vendemaire năm thứ 4, tức là ngày 5-10-1795, khi đám đông biểu tình rầm rộ trước Điện Tulleries, Napoléon đã hạ lệnh đặt các khẩu đại bác và bắn thẳng vào đám người biểu tình. Hàng trăm người chết và bị thương. Đường phố Paris nhờ vậy sớm trở lại yên tĩnh. Napoléon đã cứu được Hội Nghị Quốc Ước và chế độ Cộng Hòa, và rồi trở thành chỉ huy trưởng của quân đội thuộc Bộ Nội Vụ, nhờ đó biết được tất cả các tiến triển chính trị tại thành phố Paris. Napoléon được phong Trung Tướng và cũng là vị cố vấn quân sự cho chính phủ mới, là Hội Đồng Chấp Chính (The Directory) với Paul de Barras là một trong năm nhân vật điều khiển Hội Đồng này. Chính vào thời gian này, Napoléon đã làm quen với góa phụ của Tướng Alexandre de Beauharnais, một người đã chết trên đoạn đầu đài trong thời kỳ khủng bố. Bà góa phụ này hơn Napoléon 6 tuổi, tên là Josephine Tascher de la Pagerie, là một người gốc gác thuộc hòn đảo Martinique miền Tây Ấn, có hai con và nhiều mối tình với vài nhân vật danh giá.

Cũng vào thời gian này, Napoléon đã tỏ ra trung thành với Hội Đồng Chấp Chính nhờ công lao giải tán một nhóm người Cộng Sản chủ trương do Francois Babeuf và Filippo Buonarroti, một người Ý mà Napoléon đã quen biết từ đảo Corsica.

Vào tháng 3 năm 1796, Napoléon được cử làm Tư Lệnh đạo quân Pháp tại Ý Đại Lợi, chỉ huy một chiến dịch mà Hội Đồng Chấp Chính trù liệu rằng Napoléon sẽ ngăn chặn đạo quân Áo đóng tại nước Ý trong khi các đạo quân Pháp lớn hơn sẽ băng qua nước Đức để đánh vào thành phố Vienna là thủ đô của nước Áo. Napoléon đã cưới Josephine de Beauharnais rồi 2 ngày sau, lên đường qua nước Ý, nhận chức vụ. Khi tới Bộ Chỉ Huy quân đội Pháp đóng tại Nice, ông thấy rằng đội quân này, với quân số 43,000 người nhưng thực ra chỉ có 30,000 binh lính vừa thiếu ăn, vừa thiếu mặc, thiếu trang bị và không được trả lương đầy đủ. Ngày 28 tháng 3 năm 1796, Napoléon đã nói trước quân đội: “Hỡi các binh sĩ, các người trơ trụi, thiếu ăn. Các tỉnh giàu có và các đô thị to lớn sẽ ở trong quyền lực của các người và tại các nơi đó, các người sẽ tìm thấy danh dự, vinh quang và tài sản. Hỡi các binh sĩ của miền Ý Đại Lợi, các người cần phải có can đảm và cương quyết”.

Ngày 12 tháng 4 năm đó, Napoléon đã đánh bại đạo quân Áo, chia cắt lực lượng này với đạo quân Sardina rồi tiến vào thành phố Turin. Vua của xứ Sardina là Victor Amadeus III phải xin đình chiến rồi sau Hiệp Ước Hòa Bình tại Paris vào ngày 15-5, hai xứ Nice và Savoy do người Pháp chiếm từ năm 1762, được sát nhập vào nước Pháp. Vào thời gian này, có một kế hoạch cải biến nước Ý theo chế độ cộng hòa do một số nhà ái quốc người Ý, lãnh đạo do Buonarroti, nhưng ông này đã bị bắt cùng với Babeuf vì chống lại Hội Đồng Chấp Chính. Trước hoàn cảnh chính trị của nước Ý, Napoléon đã cho lập nên một chế độ cộng hòa tại Lombardi nhưng vẫn cho theo dõi các nhà lãnh tụ Ý, và vào tháng 10 năm 1796, Napoléon đã dựng nên nước Cộng Hòa Cisalpine bằng cách phối hợp xứ Modena và Reggio nell’ Emilia với các miền đất thuộc Giáo Hoàng là Bologna và Ferrara đang do quân đội Pháp chiếm đóng.

Khi lực lượng Pháp do Napoléon chỉ huy bao vây Mantua, các đoàn quân của nước Áo đã bốn lần vượt qua rặng núi Alps để tiếp cứu Mantua nhưng quân Áo đã bị Napoléon đánh bại. Tháng 1 năm 1797, đoàn quân Áo phải đầu hàng tại Rivoli và thành trì Mantua thất thủ. Sau đó, Napoléon đưa quân tiến tới Vienna. Khi còn cách thủ đô nước Áo 100 cây số, người Áo đã xin đình chiến. Nước Áo bằng lòng nhường miền nam của xứ Hòa Lan cho nước Pháp và công nhận Cộng Hòa Lombardy thuộc về nước Pháp. Napoléon lo việc củng cố các chế độ cộng hòa tại miền bắc nước Ý là Cộng Hòa Ligurian (Genoa) và Cộng Hòa Cisalpine. Một số nhà ái quốc người Ý vào lúc này đã hy vọng rằng những phát triển chính trị này sẽ dẫn tới việc thành lập một quốc gia cộng hòa Ý theo kiểu mẫu của nước Pháp.

Các chiến dịch tại nước Ý do Napoléon điều khiển đã chứng tỏ thiên tài quân sự của ông, và cũng tại nước Ý, Napoléon đã làm phát triển một chiến thuật quân sự rất thành công, dùng làm căn bản cho các trận đánh lớn về sau. Napoléon đã dùng bộ óc bén nhậy của mình để quan sát các địa thế, hiểu rõ các chi tiết địa hình nào sẽ làm cản trở việc tiến quân. Ông sớm đoán trước được các kế hoạch của kẻ địch. Khi bắt đầu vào trận chiến, Napoléon đã để dự trữ một lực lượng lớn, quan sát rõ ràng mặt trận và tìm ra điểm yếu nhất của lực lượng địch, dồn sức mạnh quân sự vào điểm đó, chia hai lực lượng địch rồi vào thời điểm quyết định, dùng lực lượng dự trữ hùng hậu, thanh toán ngay một nửa địch quân và kẻ địch đã phải kinh hoàng trước sức tấn công bất ngờ như vũ bão. Napoléon Bonaparte là vị danh tướng có một khả năng đặc biệt, đó là nhận ra được thời điểm tốt nhất để tấn công. Bằng chiến thuật này, trong 11 ngày của năm 1796, Napoléon đã đánh bại đội quân Sardina đông gấp 5 lần. Napoléon đã theo đúng “nguyên tắc chia và chinh phục” (the principle of divide and conquer).

Napoléon còn tỏ ra có thiên tài về tâm lý và tuyên truyền. Ông đã nói trước hàng quân : “Trong hai tuần lễ, các người đã đạt được 6 chiến thắng. Các người đã bắt 15,000 tù binh. Các người đã giết chết hay làm bị thương 10,000 địch quân. Thiếu thốn đủ thứ, các người đã hoàn thành mọi nhiệm vụ. Các người đã chiến thắng mà không có đại bác, vượt qua sông mà không có cầu, tiến bước mà không có giầy, đóng quân mà không có rượu mạnh, và thường không có cả bánh mì. Chỉ có các đoàn quân của nước Cộng Hòa, chỉ có các người lính của Tự Do mới có khả năng chịu đựng những thiếu thốn mà các người đang phải chịu đựng. . . Tất cả các người đang náo nức mang vinh quang về cho dân tộc Pháp, làm khiêm nhường các vị vua kiêu căng dám xiềng xích chúng ta. Các người hãy trở về làng mạc của các người và nói một cách hãnh diện rằng “ta đã ở trong đoàn quân chinh phục Ý Đại Lợi” “

Vào mùa xuân năm 1797, các người bảo hoàng đã thành công trong cuộc bầu cử tại nước Pháp khiến cho Napoléon khuyên Hội Đồng Chấp Chính hãy cản trở họ và nếu cần thì dùng sức mạnh. Tới tháng 7 năm đó xẩy ra một cuộc đảo chính chống lại phe bảo hoàng, nhưng thất bại. Vì vậy Napoléon đã phái tướng Pierre Augereau về Paris. Cùng với một số sĩ quan và binh lính, cuộc đảo chính của tướng Augereau vào ngày 18 tháng Fructidor (4 tháng 9-1797) thành công, đã loại bỏ các người bảo hoàng khỏi chính phủ và khỏi các hội đồng lập pháp và đồng thời, cũng làm tăng uy tín của Napoléon.

Trong chưa đầy một năm, Napoléon đã chiến thắng 14 trận lớn và hơn 70 trận nhỏ. Đội quân của ông đã chinh phục các miền giàu có và những nơi này đã phải nuôi ăn và đóng góp cho quân đội Pháp. Hàng triệu quan tiền được gửi về nước Pháp để làm giảm nhẹ các gánh nặng tài chính của chính phủ trung ương. Vào tháng 10 năm 1797, nước Pháp và nước Áo đã ký kết Hòa Ước Campo Formio nhờ đó lãnh thổ Pháp được mở rộng. Napoléon trở về Paris và được đón mừng như một vị anh hùng. Napoléon Bonaparte đã mang lại vinh quang cho nước Pháp sau 5 năm chiến tranh trên lục địa của châu Âu.

4- Xâm lăng Ai Cập.

Sau khi đã chiến thắng được nước Áo và trở về Paris, Napoléon mang nhiều tham vọng lớn nhưng ông thấy chưa có đủ ảnh hưởng tác động tới chính quyền trung ương. Vào thời bấy giờ, tất cả các nước trên lục địa châu Âu đều phải quy phục nước Pháp, ngoại trừ nước Anh.

Vào cuối năm 1797, Hội Đồng Chấp Chính muốn thực hiện một cuộc đổ bộ qua nước Anh nên đã chỉ định Napoléon chỉ huy công cuộc viễn chinh qua eo biển Manche. Sau một cuộc thanh tra ngắn hạn vào tháng 2 năm 1798, Napoléon tuyên bố rằng cuộc xâm chiếm nước Anh chỉ thực hiện được sau khi nước Pháp làm chủ được mặt biển và ông đã đề nghị nên đánh phá các nguồn tài nguyên của nước Anh bằng cách chiếm đóng xứ Ai Cập và như vậy, đe dọa con đường dẫn tới Ấn Độ. Napoléon muốn bắt chước lối chinh phục của Đại Đế Alexander bằng cách chiếm đoạt đế quốc phía đông gồm Ai Cập, Ấn Độ, các miền đất Trung Đông và Viễn Đông. Đề nghị của Napoléon được vị Bộ Trưởng Ngoại Giao là ông Talleyrand ủng hộ và được các nhân vật lãnh đạo Hội Đồng Chấp Chính chấp thuận ngay, vì chính các vị này cũng đang muốn đẩy đi xa vị tướng trẻ nhiều tham vọng là Napoléon Bonaparte.

Vào tháng 5 năm 1798, Napoléon bắt đầu cuộc viễn chinh tại Ai Cập với 38,000 quân. Các chiến thắng bắt đầu: pháo đài Malta của các hiệp sĩ Hospitallers (the Knights Hospitallers of St. John of Jerusalem) bị thất thủ vào ngày 10-6-1798, rồi thành phố Alexandria của Ai Cập đầu hàng vào ngày 1 tháng 7. Napoléon đã đánh bại các kẻ cai trị xứ Ai Cập có tên là nhóm Mamelukes, trong trận đánh tại các Kim Tự Tháp gần thành phố Cairo. Rồi đồng bằng sông Nile bị chinh phục rất nhanh chóng. Nhưng, vào ngày 1-8-1798, hạm đội Pháp bỏ neo tại Vịnh Abu Qir đã bị hoàn toàn phá hủy bởi hạm đội Anh của Đô Đốc Horatio Nelson trong trận thủy chiến “Dòng Sông Nile” (the Battle of the Nile) khiến cho đoàn quân Pháp bị mắc kẹt trong miền đất mà họ đã chinh phục được và bị cắt đứt các nguồn tăng cường và tiếp tế. Cũng vào thời gian này, Napoléon đã cố gắng đưa vào xứ Ai Cập các định chế chính trị, cách quản trị và tài năng kỹ thuật của tây phương. Quốc gia bảo hộ Ai Cập là Thổ Nhĩ Kỳ bèn liên minh với các nước Anh, nước Nga và tuyên chiến với nước Pháp vào tháng 9 năm đó. Để ngăn chặn cuộc tấn công của Thổ Nhĩ Kỳ vào xứ Ai Cập và có lẽ cũng vì muốn trở về đất Pháp bằng con đường Anatolia, Napoléon đã đưa quân qua Syria vào tháng 2 năm 1799, tiến tới pháo đài Acre (ngày nay là Akko, thuộc nước Do Thái) và đoàn quân Pháp đã bị chặn đánh thảm bại tại nơi này. Napoléon đành phải rút về Ai Cập và khi tới Abu Qir, gần Vịnh Abu Qir, ông đã đánh thắng 10,000 quân Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 7 năm 1799.

Trận đánh “Dòng Sông Nile” đã cho người châu Âu thấy rằng Napoléon Bonaparte không phải là vô địch và các nước Anh, Áo, Nga, Thổ đã họp thành một liên minh quân sự mới, chống lại nước Pháp. Từ mùa xuân năm 1799, quân đội Pháp bị thua nhiều trận tại nước Ý và đã phải rút lui khỏi phần lớn bán đảo Ý Đại Lợi. Những thất bại quân sự này đã gây nên các xáo trộn trong nước Pháp. Ngày 30 tháng Prairial (18-6-1799), một cuộc đảo chính đã loại ra ngoài Hội Đồng Chấp Chính các nhân vật ôn hòa và đưa vô Hội Đồng này các đảng viên Jacobin, là các người cực đoan. Nhưng hoàn cảnh chính trị vẫn không ổn định. Một trong các nhân vật lãnh đạo Hội Đồng Chấp Chính là ông Emmanuel Sieyès đã tin chắc rằng chỉ có chế độ độc tài quân sự mới ngăn ngừa được việc phục hưng chế độ quân chủ. Ông Sieyès tuyên bố: “Tôi đang tìm kiếm một cây gươm”. Hội Đồng Chấp Chính đã ra lệnh cho Napoléon trở về đất Pháp.

Tình hình chính trị tại nước Pháp vào lúc này rất thuận tiện cho Napoléon. Việc phục hồi nhóm đảng viên Jacobin khiến cho các kẻ ôn hòa lo ngại sẽ xẩy ra một thời kỳ khủng bố mới, họ trông đợi một chính quyền mạnh, ngăn chặn được khuynh hướng cấp tiến này. Cũng vào thời gian này, Hội Đồng Chấp Chính đã thiết lập nên 4 nước cộng hòa vệ tinh là các xứ Batavian (Hòa Lan), Helvetian (Thụy Sĩ), Roman (La Mã) và Parthenopean (Naples). Các nhà lãnh đạo nước Áo, hay dòng họ Hapsburg, vì thế rất lo ngại ảnh hưởng của nước Pháp tại các miền đất Ý thuộc nước Áo trước kia, và Sa Hoàng Paul I (trị vì 1796-1801) lo sợ Napoléon sẽ làm hư hại các quyền lợi của nước Nga tại vùng Địa Trung Hải. Đế Quốc Pháp mới mẻ đã làm lệch đi sự thăng bằng chính trị của châu Âu nên các nước Anh, Áo và Nga đã lập nên liên minh quân sự thứ hai và trong năm 1799, quân đội Nga dưới quyền của Tướng Alexander Suvorov (1729-1800) đã nhiều lần đánh bại quân đội Pháp và Tướng Suvorov trở nên vị anh hùng của châu Âu. Vào tháng 8 năm 1799, quân Pháp bị đẩy ra khỏi lãnh thổ Ý và phần lớn các nước cộng hòa Pháp bị sụp đổ. Chính vào lúc này, lãnh thổ Pháp đang đứng trước nguy cơ bị xâm lăng. Có nhiều âm mưu phản cách mạng. Chế độ Cộng Hòa đang cần cấp cứu. Tháng 8 năm 1799, Napoléon Bonaparte lên tầu, lẻn về Pháp, giao quyền chỉ huy đoàn quân Ai Cập cho Tướng Jean Kleber.

5- Tổng Tài Thứ Nhất của nước Pháp.

Cùng với một số người thân tín, Napoléon rời Ai Cập vào ngày 22-8-1799 bằng hai con tầu nhỏ và rất may, họ về tới đất Pháp an toàn, tránh được vòng phong tỏa của Hải Quân Anh. Napoléon tới Paris vào ngày 14 tháng 10 năm đó. Tin tức về chiến thắng tại Abu Qir đã khiến cho nhân dân Pháp hân hoan đón mừng sự trở về của người anh hùng trẻ tuổi Napoléon. Cũng vào lúc này, quân đội Pháp đã thắng lớn tại Hòa Lan và Thụy Sĩ, tránh được cảnh nước Pháp bị xâm lăng đồng thời các lực lượng phản cách mạng trong nước cũng bị thất bại. Nước Cộng Hòa Pháp đã được cứu vãn nhưng ông Sieyès vẫn muốn tiếp tục kế hoạch cũ: lưỡi gươm Napoléon đã tới với ông.

Vào cuối tháng 10 năm 1799, Sieyès và Napoléon đã thực hiện một cuộc đảo chính vào hai ngày 18 và 19 tháng Brumaire, năm thứ 8 của Lịch Cách Mạng, tức là ngày 9-10 tháng 11 năm 1799. Kết quả của cuộc đảo chính này là các hội đồng lập pháp bị giải tán, các đại biểu đối lập bị loại bỏ, một chính quyền mới được thành lập với ba tổng tài (consul) là Napoléon, Sieyès và Pierre Robert Ducos. Một hiến pháp mới đã được nhân dân Pháp chấp thuận, theo đó Napoléon được bầu làm “Tổng Tài Thứ Nhất” (first consul) còn hai vị tổng tài kia chỉ làm cố vấn cho Napoléon. Sau 10 năm cách mạng với các xáo trộn phức tạp, nhân dân Pháp mong muốn có một vị lãnh đạo mạnh, nhờ vậy vào lúc này, Napoléon có thể cai trị nước Pháp như một nhà độc tài. Napoléon Bonaparte đã là chủ nhân của cả nước Pháp.

Khi lên cầm quyền “Tổng Tài Thứ Nhất”, Napoléon mới 30 tuổi, là một con người lùn và gầy, với mái tóc cắt sát nên được gọi là “le petit tondu” (chàng thanh niên nhỏ người có mái tóc cắt sát). Người dân Pháp vào thời gian này không biết rõ về cá nhân của Napoléon, họ đặt tin tưởng vào một nhân vật luôn luôn chiến thắng vì Napoléon là một chính trị gia khôn khéo, đã che dấu hai lần thất bại tại Dòng Sông Nile và tại pháo đài Acre. Người dân Pháp vẫn còn ghi nhớ Hòa Ước Campo Formio, mang lại danh dự về cho nước Pháp. Người dân Pháp trông đợi Napoléon sẽ chấm dứt hệ thống chính quyền tham nhũng và không ổn định của Hội Đồng Chấp Chính, củng cố các thành quả chính trị và xã hội của Cách Mạng, cứu nguy và mang lại Hòa Bình cho xứ sở.

Napoléon Bonaparte quả thực là một nhân vật thông minh xuất chúng. Ông hiểu biết rất rõ về lịch sử và luật pháp cũng như khoa học quân sự. Ông làm việc không biết mệt, quyết định rất nhanh chóng và có nhiều tham vọng không giới hạn. Napoléon chính là con người của Cách Mạng Pháp bởi vì chính nhờ cuộc Cách Mạng này mà ông sớm bước chân lên địa vị cao sang và quyền lực bậc nhất của quốc gia. Napoléon Bonaparte lại là con người của thế kỷ 19, người con đích thực của Voltaire, là nhà chuyên chế được khai sáng nhất (the most enlightened despot) của các nhà độc tài chuyên chế: ông không tin tưởng vào chủ quyền của nhân dân, vào các tranh đấu đại nghị, vào các ý muốn của toàn dân. Napoléon đặt tin tưởng vào lý luận (reasoning) hơn là lý trí (reason), cho rằng các ý muốn dù được khai sáng (enlightened) hay cương quyết tới đâu cũng cần đến sự yểm trợ của lưỡi lê (the support of bayonets). Napoléon đã coi thường dư luận và tin rằng ông có thể hướng dẫn hay bóp méo dư luận theo ý mình. Napoléon Bonaparte được người dân Pháp gọi là vị tướng có tính “dân sự” nhất (the most “civilian” of generals) nhưng mãi mãi ông vẫn là một quân nhân.

Từ khi lên làm Tổng Tài Thứ Nhất, Napoléon đã áp đặt chế độ độc tài quân sự lên toàn thể nước Pháp và thực chất của đặc tính này nằm trong Hiến Pháp của năm thứ 8 (4 Nivose, 25-12-1799) do Sieyès thảo ra. Hiến Pháp này không đề cập gì tới các nguyên tắc “tự do, bình đẳng và huynh đệ” của cuộc Cách Mạng Pháp, không bảo đảm “dân quyền” (the rights of man) mà lại ban cho vị Tổng Tài Thứ Nhất các quyền lực vô hạn. Napoléon Bonaparte với danh nghĩa Tổng Tài này, có thể chỉ định các bộ trưởng, quan tòa, tướng tá, nhân viên Hội Đồng Quốc Gia, công chức, và cả các nhân viên của hội đồng lập pháp mà theo lý thuyết, những vị này phải được bầu lên do phổ thông đầu phiếu. Sau một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 2 năm 1800, Hiến Pháp năm thứ 8 đã được chấp thuận.

Các chương trình cải tổ của Napoléon bắt đầu. Đứng đầu chính quyền là Hội Đồng Quốc Gia (the Council of State), gồm các chuyên viên tạo nên một Nội Các trung ương, chủ tọa do Napoléon và chỉ chịu trách nhiệm trước Napoléon. Các xáo trộn về quản trị hành chánh trong thời kỳ Cách Mạng đã được sửa đổi. Một nhóm các bộ sở được thành lập để thi hành việc kiểm soát từ trung ương, chẳng hạn như Bộ Tài Chính lo về thuế vụ, Bộ Nội Vụ lo an ninh trong xứ. Lãnh thổ được chia thành nhiều tỉnh (departements), tổng (cantons), làng (communes), nhưng các nhân viên hành chánh đều do trung ương bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước chính quyền Paris. Việc tập trung về trung ương của nền tài chính cũng được thực hiện do việc thiết lập ra Ngân Hàng Pháp Quốc (the Bank of France) trong đó 200 cổ đông chính, tạo nên Hội Đồng Quản Trị, là các nhà trí thức tư sản của thành phố Paris. Hệ thống huân chương được quy định với Bắc Đẩu Bội Tinh (the Legion of Honor) là bậc cao cấp nhất. Ngành Tư Pháp cũng bị thay đổi đáng kể do việc phổ biến Đạo Luật Napoléon (the Code Napoléon), làm tiêu hủy các luật lệ khác nhau thuộc các tỉnh khác nhau của nước Pháp, tạo nên một hệ thống luật pháp thống nhất, không đặt căn cứ trên các điều lệ đã có từ trước mà trên lý trí (reason). Đạo luật này công nhận mọi người bình đẳng trước Pháp Luật bất kể cấp bậc hay tài sản, nhưng đã đặt quyền lợi của Quốc Gia lên trên quyền lợi của Cá Nhân. Bộ Luật Napoléon đã là một kiểu mẫu cho các nhà cải tổ Luật Pháp trên toàn thế giới. Các quan tòa từ nay không còn được bầu lên từ các địa phương như trong thời kỳ Cách Mạng, mà được bổ nhiệm từ trung ương. Tổ chức cảnh sát cũng được tăng cường. Nền Giáo Dục được cải tiến thành một dịch vụ công cộng chính yếu, giáo dục trung học mang tính cách bán quân sự, các Đại Học có ban giảng huấn được tổ chức lại. Napoléon cũng lập ra Đại Học Pháp Quốc (the University of France) nhưng ngành giáo dục tiểu học còn bị thiếu sót.

Napoléon cũng đồng ý với quan điểm của Voltaire theo đó người dân cần tới một tôn giáo, dù cho cá nhân của ông không quan tâm đến niềm tin tôn giáo. Giáo Hoàng Pius VII vào tháng 3 năm 1800, đã ký kết với Napoléon một bản điều ước (concordat) công nhận Nền Cộng Hòa Pháp, chấp nhận quốc gia có quyền bổ nhiệm giới tu sĩ (the clergy). Tổ chức quân đội được Tổng Tài Napoléon chú ý tới nhiều nhất: chế độ quân dịch cưỡng bách được thi hành nhưng trong đó cũng chấp nhận sự thay thế trong việc tòng quân, các lính quân dịch mới được pha trộn với các binh lính thiện chiến cũ và mọi người lính đều có cơ hội được thăng chức lên các cấp bậc cao nhất. Hàn Lâm Viện Quân Sự Saint Cyr được thành lập, mở cửa đón nhận các thanh niên thuộc các gia đình tư sản theo đuổi binh nghiệp. Ngoài ra, Trường Đại Học Bách Khoa lập nên do Hội Nghị Quốc Ước trước kia, nay được quân sự hóa để đào tạo ra các sĩ quan Pháo Binh và Công Binh.

Như vậy, Napoléon Bonaparte đã kết hợp toàn thể nước Pháp vào cách kiểm soát của chính quyền trung ương và đây là một di sản lâu dài nhất. Napoléon đã tự cho mình là người thừa kế và bảo vệ công cuộc Cách Mạng Pháp. Đối với giai cấp trung lưu, ông đã làm ổn định nền tài chính, tổ chức lại nền hành chính và xã hội cho có trật tự, lập ra các chương trình xây dựng đường lộ và sông đào. Lợi tức quốc gia được phục hồi bằng các thứ thuế trực thu và gián thu và nhờ vậy, đồng “franc” có giá trị ổn định. Đối với nông dân, đất đai của họ được bảo đảm, các loại thuế phong kiến mà người dân phải đóng nạp đã bị Luật Pháp mới chấm dứt. Giới lao động cũng có công việc làm ăn do các nhu cầu của quân đội và của một xã hội đang cải tiến. Napoléon cũng bảo đảm cho mọi người dân quyền bình đẳng trước Pháp Luật, bình đẳng về các cơ hội thăng tiến, các hình phạt tàn ác bị tiêu hủy và nền giáo dục được mở ra cho những người thông minh, hiếu học. Và trước mọi người dân trong nước, Napoléon Bonaparte đã hứa hẹn không chỉ nền an ninh quốc gia mà còn có phương cách bành trướng lãnh thổ và sự vinh quang quân sự.

Tổng Tài Thứ Nhất Napoléon Bonaparte đã không vừa lòng với việc cai trị lãnh thổ nước Pháp mà còn muốn bành trướng ảnh hưởng Pháp ra khắp các xứ Tây Phương khác. Mùa đông năm 1799 và mùa xuân năm 1800, Napoléon lo luyện tập quân đội để chuẩn bị tấn công nước Áo vì vào thời gian này, nước Nga đã rút lui khỏi liên minh chống Pháp. Napoléon nhận thấy ngay địa điểm chiến lược là liên bang Thụy Sĩ vì từ nơi này, ông có thể đánh vào sườn các đoàn quân Áo đóng tại nước Đức hay nước Ý. Kinh nghiệm trước kia đã khiến ông chọn nước Ý. Napoléon đưa quân qua đường đèo St. Bernard trước khi tuyết tan, bao vây quân đội Áo tại Genoa. Trận đánh Marengo của Napoléon đã khiến quân Pháp kiểm soát được thung lũng sông Po, tới tận Adige rồi vào tháng 12-1800, một đoàn quân Pháp khác cũng đã đánh bại quân đội Áo tại nước Đức. Nước Áo bị bắt buộc phải ký Hòa Ước Luneville vào tháng 2 năm 1801, công nhận nước Pháp có quyền chiếm đóng các miền sông Rhine, dãy núi Alps và dãy núi Pyrenées.

Tới lúc này, chỉ còn nước Anh là quốc gia duy nhất chống lại Napoléon. Các thương thảo hòa bình giữa Anh và Pháp được bắt đầu tại London vào tháng 10-1801 rồi Hiệp Ước Hòa Bình được ký kết tại Amiens vào ngày 27-3-1802. Châu Âu từ nay có hòa bình được vãn hồi. Uy tín của Tổng Tài Thứ Nhất Napoléon Bonaparte tăng lên rất cao.

Vào năm 1802, Napoléon khuyên các nhà lập pháp rằng để có đủ yếu tố ổn định, giới hạn 10 năm của Tổng Tài Thứ Nhất nên được loại bỏ, và vào tháng 5-1802, đã có quyết định để dân chúng Pháp tham dự một cuộc trưng cầu dân ý theo đó “Napoléon Bonaparte có nên làm Tổng Tài suốt đời hay không?”. Vào tháng 8 năm đó, nhân dân Pháp đã chấp thuận Napoléon làm Tổng Tài “suốt đời”, với quyền chỉ định người kế nghiệp và tùy ý tu chính Hiến Pháp.

Vào đầu thế kỷ 19, nước Anh muốn lật đổ Napoléon nên đã trợ giúp cho các người Pháp bảo hoàng để họ tiếp tục thực hiện các rối loạn và âm mưu. Khi một cuộc âm mưu do người Anh trợ giúp bị khám phá vào năm 1804, Napoléon cho rằng cần phải phản ứng thật mạnh để làm cho các kẻ chống đối phải khiếp sợ. Trong cuộc âm mưu kể trên, cảnh sát Pháp đã tin rằng người đứng đầu là hầu tước trẻ tuổi d’ Enghien, một biểu tượng của dòng họ Bourbon và ông này đang sinh sống cách biên giới Đức vài dậm đường. Rồi do sự chấp thuận của Talleyrand và của Cảnh Sát Trưởng Joseph Fouché, vị hầu tước trẻ bị bắt cóc trên miền đất trung lập, bị đưa về Vincennes , bị xét xử và bị bắn chết. Hành động này đã làm tăng uy tín của ông Fouché nhưng cũng khiến cho giới quý tộc cũ thêm bất mãn và chống đối.

Cũng vì muốn củng cố địa vị, Cảnh Sát Trưởng Fouché đã khuyên Napoléon rằng để tránh các âm mưu lật đổ, nên đổi chế độ “Tổng Tài suốt đời” thành thể chế “đế quốc” (empire) có thừa kế và như thế, các kẻ chống đối không còn hy vọng thay đổi chế độ bằng phương cách ám sát. Vào ngày 28 tháng 5 năm 1804, Đế Chế được công bố thành hình mặc dù không có thay đổi nhiều trong cách tổ chức chính quyền của nước Pháp, ngoài một số cơ chế tương tự như đế chế cũ. Đầu tiên, Napoléon muốn được phong chức bởi Giáo Hoàng nhờ đó, việc đăng quang sẽ gây ra nhiều ấn tượng tốt đẹp đối với dân chúng Pháp và các quốc gia khác, và đặc biệt mang tính cách chính thức hơn cả các nhà vua Pháp. Giáo Hoàng Pius VII cũng đồng ý tới Paris và trong buổi lễ đăng quang rực rỡ tổ chức vào ngày 2 tháng 12 năm 1804 tại Giáo Đường Notre Dame, Paris, Hoàng Đế Napoléon Bonaparte đã nhận vương niệm từ tay Giáo Hoàng và theo gương của Charlemagne, Napoléon đã tự đặt vương niệm đó lên đầu mình. Từ nay, là “Hoàng Đế của nước Pháp”, Napoléon Bonaparte có quyền truyền lại ngai vàng cho các con cháu. Các người trong gia đình Bonaparte đã mang các danh xưng quý tộc. Việc phục hồi chế độ quân chủ chuyên chế là một điều lăng nhục đối với các người bảo hoàng và đối với các cựu chiến sĩ của Cuộc Cách Mạng Pháp. Để dẹp tan các phản kháng, Napoléon đã tăng cường công việc tuyên truyền, báo chí bị kiểm duyệt gắt gao. Chế độ độc tài quân chủ này đã cho phép Napoléon thực hiện các cuộc chiến tranh trong nhiều năm mà không cần quan tâm tới dư luận quần chúng Pháp. Tại phần đất Ý Đại Lợi, Napoléon Bonaparte đã lãnh đạo nước Cộng Hòa Cisalpine từ khi nước này được thành lập, vì thế vào tháng 3 năm 1805, Napoléon Bonaparte được công bố trở thành Vua của nước Ý và đã lên ngai vàng vào tháng 5 năm đó tại Milan.

Napoléon Bonaparte là một nhà chính trị khôn khéo. Mỗi lần muốn thay đổi Hiến Pháp theo chiều hướng thiếu dân chủ, ông đều dùng tới phương pháp trưng cầu dân ý và kết quả thu được rất có lợi cho Napoléon: cuộc bỏ phiếu năm 1799-1800 chấp thuận Napoléon và Hiến Pháp của Năm Thứ 8 có 3,011,107 phiếu thuận đối với 1,562 phiếu chống; rồi vào năm 1803, 3,568,885 phiếu thuận, đồng ý để Napoléon làm Tổng Tài suốt đời so với 8,357 phiếu chống; còn cuộc bỏ phiếu đồng ý Đế Chế đã mang lại kết quả là 3,572,329 phiếu thuận, trong khi phiếu chống là 2,579. Chắc chắn là các cử tri Pháp vào thời kỳ đó đã bị các áp lực chính trị và các kết quả công bố có phần bị sửa đổi, nhưng không còn nghi ngờ gì khi đại đa số dân chúng Pháp đã ủng hộ Napoléon. Các vinh quang quân sự do Napoléon mang lại đã hấp dẫn những người có tinh thần quốc gia đang lên, và các chính sách ổn định kinh tế quốc nội đã khiến cho mọi người dân không còn muốn các biến động cách mạng hay các thay đổi chính quyền, bởi vì Napoléon đã làm thay đổi một số chính sách cách mạng cũ và thêm vào các cải tổ theo những nhận xét của các nhà tư tưởng mới. Nhờ các cải tiến chính sách, niềm tin của dân chúng Pháp đã tăng lên từ dưới, và quyền lực đã phát triển từ trên.

Từ nay tại nước Pháp, mọi người với quá trình chính trị khác nhau đều được đặt vào nền hành chính đế chế có tính trung ương tập quyền, giống như dưới triều đại của Vua Louis 14. Napoléon là một nhà chuyên chế khai sáng (enlightened despot). Napoléon chỉ quan tâm đến khả năng của những kẻ dưới quyền, dù cho trước kia họ là cựu đảng viên Jacobin hay là các người di cư. Đế chế này đã đặt căn bản trên một nền móng chính trị rộng rãi. Napoléon đã tưởng thưởng trọng hậu các kẻ có công, kể cả bằng các tước hiệu cao cấp. Do việc tái lập đế chế, đã có hàng chục hầu tước, hàng trăm bá tước và công tước. Napoléon đã phong cho các tướng lãnh và sĩ quan xuất sắc cấp bậc “Thống Chế” (marshal) và tưởng thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh (Legion of Honor) và với huy chương này, họ được tiền trợ cấp hàng năm. Napoléon đã nhận xét rằng “chế độ quý tộc luôn luôn tồn tại” (aristocracy always exists), và khi bị phá bỏ thì chế độ đó đã chuyển về các gia đình trung lưu giàu sang và có thế lực. Như vậy, những người đứng đầu giai cấp trung lưu Pháp của thời đại đó đã dần dần trở nên các nhà quý tộc hoàng gia.

6- Napoléon và các trận chiến 1800-1807.

Đối với nhiều người Pháp, Napoléon Bonaparte là con người của Định Mệnh (the Man of Destiny), là nhà cai trị xuất sắc nhất trong lịch sử của nước Pháp. Nhưng đối với các người khác của châu Âu, Napoléon lại là kẻ thù của các nền độc lập quốc gia. Các chinh phục quân sự của Napoléon đã khiến cho nhiều miền đất tự do khác phải quy phục nước Pháp, vì thế Napoléon bị gọi là “con người ảm đạm trên lưng ngựa” (the Sinister Man on Horseback), một kẻ độc tài đế quốc với tham vọng không bao giờ thỏa mãn. Các oán hận của các quốc gia và của người dân châu Âu khác đã dần dần làm lung lay đế quốc của Napoléon Bonaparte.

Vào năm 1800, Sa Hoàng Paul của nước Nga đã thiết lập nên Liên Minh Baltic của các quốc gia trung lập (the Baltic League of Armed Neutrality) kết hợp các nước Phổ, Đan Mạch, Thụy Điển và Nga, để chống lại nước Anh. Sa Hoàng Paul còn muốn hợp tác với nước Pháp để đẩy người Anh ra khỏi vùng đất Ấn Độ. Nhưng kế hoạch kể trên đã bị sụp đổ khi Sa Hoàng Paul bị ám sát, kế nghiệp là Sa Hoàng Alexander I. Cũng vào mùa xuân năm 1800 này, Napoléon Bonaparte đã đưa quân vượt qua dãy núi Alps, đánh bại quân đội Áo trên miền đất Ý và qua Hiệp Ước Luneville (1801), nước Áo phải công nhận nước Ý thuộc quyền của người Pháp và để Napoléon vẽ lại bản đồ của nước Đức.

Sau Hiệp Ước Luneville, chỉ còn nước Anh đối đầu với nước Pháp. Nước Anh đã chiếm được các thuộc địa của Hòa Lan và Tây Ban Nha và hạm đội Anh của Đô Đốc Nelson đã đẩy được người Pháp ra khỏi xứ Ai Cập. Năm 1802, Hòa Ước Hòa Bình Amiens được ký kết, đã chỉ mang lại sự tạm thời đình chiến trong một năm vì sau đó, Napoléon đang mưu toan thành lập một đế quốc thuộc địa tại hòn đảo Haiti và vùng đất Louisiana thuộc Bắc Mỹ mà nước Tây Ban Nha đã nhường lại cho nước Pháp vào năm 1800.

Tại xứ Haiti, đa số người da đen địa phương đã vui mừng khi Hội Nghị Quốc Ước hủy bỏ chế độ nô lệ, nhưng khi các Tổng Tài đặt lại chế độ bất công kể trên tại xứ Haiti thì Francois Toussaint L’ Ouverture (c. 1744-1803) và Jean Jacques Dessalines (c. 1758-1806) đã cầm đầu các cuộc nổi dậy chống lại người Pháp. Thêm vào đó, bệnh sốt vàng da đã gây tổn thất lớn lao cho quân đội viễn chinh Pháp, khiến cho Napoléon phải bỏ dở kế hoạch chinh phục Mỹ Châu. Năm 1803, Napoléon đã bán miền đất Louisiana cho Hoa Kỳ với giá 80 triệu quan tiền.

Từ năm 1803 tới năm 1805, chỉ còn nước Anh là miền đất Napoléon Bonaparte phải chinh phục và muốn vậy, người Pháp phải đổ bộ lên đất Anh và ngược lại, người Anh muốn đánh bại Napoléon thì phải lập nên một liên minh trên lục địa châu Âu. Vào thời gian này, Napoléon bắt đầu chuẩn bị công cuộc xâm lăng nước Anh trên một quy mô rộng lớn. Gần 2,000 con tầu chiến Pháp được thu về các hải cảng nằm giữa quân cảng Brest và thành phố Antwerp trong khi đó, Đại Quân Pháp tập trung tại Boulogne. Nhưng khó khăn vẫn là làm sao vượt qua được eo biển Channel và muốn vậy, người Pháp phải làm chủ được mặt biển.

Do Hải Quân Pháp còn thua kém Hải Quân Anh, hạm đội Pháp cần tới sự giúp đỡ của Hải Quân Tây Ban Nha nhưng dù vậy, hai hạm đội này cũng chỉ có thể đánh bại một hạm đội Anh. Vào tháng 12 năm 1804, đã có quyết định theo đó các hạm đội Pháp và Tây Ban Nha sẽ tập trung tại quần đảo Antilles để nhử cho hạm đội Anh tới đó mà tiêu diệt rồi về sau, trận đánh trên biển Channel mới có hy vọng chiến thắng. Theo kế hoạch, hạm đội Pháp do Đô Đốc Pierre de Villeneuve từ Địa Trung Hải đã tới quần đảo Antilles nhưng không thấy hạm đội Tây Ban Nha, rồi hạm đội Pháp bị hạm đội của Đô Đốc Nelson săn đuổi. Đô Đốc De Villeneuve phải cho đoàn tầu chạy về châu Âu, trú ẩn tại hải cảng Cadiz thuộc nước Tây Ban Nha vào tháng 7-1805 rồi tại đó, bị hạm đội Anh bao vây. Bị Napoléon cho là hèn nhát, De Villeneuve đành phải phá vòng vây và dù với sự trợ giúp của một hạm đội Tây Ban Nha, hạm đội Pháp đã bị Hải Quân Anh tấn công bên ngoài hải cảng Trafalgar vào ngày 21-10-1805. Mặc dù Đô Đốc Nelson bị tử thương trong trận hải chiến này nhưng hai hạm đội Pháp và Tây Ban Nha đã bị hoàn toàn phá hủy. Chiến thắng của Hải Quân Anh có tính quyết định, đã chấm dứt mọi hy vọng xâm lăng các hải đảo Anh Cát Lợi của Napoléon và cho phép người Anh làm chủ được mặt biển.

Trước khi trận Trafalgar xẩy ra, ba nước Anh, Áo và Nga đã lập nên Liên Minh thứ ba chống lại nước Pháp, do sự vận động của Thủ Tướng William Pitt trong khi đó, Napoléon muốn vẽ lại bản đồ của nước Đức bằng cách dẹp bỏ hàng trăm thành phố và các vương quốc nhỏ để tạo ra các xứ miền nam, đặt dưới quyền cai trị của nước Pháp.

Ngày 24-7-1805, Napoléon Bonaparte đã ra lệnh chuyển Đại Quân từ Boulogne qua miền sông Danube và trong trận đánh tại Ulm vào tháng 10 năm đó, Napoléon đã bắt được 30,000 tù binh người Áo. Hầu Tước người Áo Ferdinand chạy thoát với một toán kỵ binh nhỏ. Ngày 13-11, Napoléon tiến vào Vienna. Ngày 02 tháng 12 năm 1805, Napoléon Bonaparte đã kín đáo và với tốc độ chuyển quân thần tốc, đem lực lượng tăng cường đánh bất ngờ vào đạo quân liên hợp Áo-Nga tại làng Austerlitz, gây nên thiệt hại cho địch quân là 27,000 người, so với 9,000 người tổn thất của Pháp. Sau trận đánh lừng danh này, trên lục địa châu Âu đã lan truyền lời nói của Napoléon : “Ta đã đánh bại đạo quân Nga và Áo do hai Hoàng Đế chỉ huy”.

Trong vòng một tháng, Napoléon Bonaparte đã ép buộc Hoàng Đế Hapsburg là Francis I phải ký Hòa Ước Pressburg theo đó nước Áo chấp nhận mất hết ảnh hưởng tại nước Ý và nhường 2 miền Venetia và Dalmatia cho Napoléon, cũng như bằng lòng để người Pháp cai quản các xứ Bavaria, Wurttemberg và Baden. Sau đó, ngai vàng của dòng họ Bourbons tại vương quốc Naples đã được dành cho người anh của Napoléon là Joseph. Vào tháng 7 năm 1806, Liên Bang Sông Rhine được thành lập, bao gồm tất cả miền tây nước Đức và được đặt dưới quyền bảo hộ của người Pháp.

Tháng 9 năm 1806, nước Phổ gây chiến với nước Pháp và vào ngày 14 tháng 10 năm đó, các đạo quân Phổ đã bị Napoléon đánh bại tại Jena và Auerstadt. Năm 1807, khi tiến quân vào thành phố Warsaw, Napoléon đã gặp bà Bá Tước Marie Walewska, một người Ba Lan yêu nước, muốn kết hôn với Napoléon để nhờ đó quốc gia Ba Lan được tái lập. Napoléon đã có với bà Walewska một đứa con.

Như vậy trên lục địa châu Âu chỉ còn một quốc gia chống đối Napoléon là nước Nga. Tại Eylau, quân đội Nga đã cầm cự được với đạo quân của Napoléon vào tháng 2-1807 nhưng rồi vào tháng 6 năm đó, đã phải bỏ chạy trước quân đội Pháp sau trận đánh Friedland.

Sau các lần liên minh quân sự với nước Anh, Sa Hoàng Alexander I của nước Nga đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản, nên đã hẹn gặp Napoléon trên một cái bè thả nổi trên dòng sông Niemen tại Tilsit, một nơi biên giới giữa hai xứ Nga và Đông Phổ. Hai hoàng đế Pháp và Nga đã ký một thỏa ước chia đôi châu Âu và tạo nên lãnh địa hầu tước Warsaw (Grand Duchy of Warsaw) từ các tỉnh Ba Lan được tách ra khỏi nước Phổ và lãnh địa này được Napoléon giao cho một nước đồng minh của Pháp cai quản, đó là Vua xứ Saxony. Lãnh thổ của nước Phổ nằm ở phía tây dòng sông Elbe thuộc quyền Napoléon và Napoléon có quyền đóng quân trên đất Phổ cũng như giới hạn quân số của nước này là 42,000 người.

Napoléon Bonaparte đã đoạt được hàng loạt chiến thắng quân sự nhờ thiên tài cầm quân của ông, nhờ các tướng lãnh tài giỏi và tinh thần chiến đấu anh dũng của quân sĩ dưới quyền, và cũng nhờ các lỗi lầm, sơ sót của địch quân. Từ nay, quân đội Pháp là lực lượng đáng sợ nhất và tiến bộ nhất của châu Âu. Đạo quân này có những lính mới do chế độ quân dịch, với quân số mới vào khoảng 85,000 người mỗi năm và các tân binh được bổ sung vào các đoàn quân tinh nhuệ cũ để đáp ứng nhu cầu chiến trường. Các sĩ quan Pháp dưới thời Napoléon được thăng cấp trên căn bản khả năng hơn là thâm niên hay thế lực, và các cấp chỉ huy này quan tâm tới tinh thần chiến đấu của binh sĩ hơn là lo áp dụng kỷ luật nghiêm ngặt. Về phần quyết định trận đánh, Napoléon Bonaparte chỉ ra lệnh tấn công khi lực lượng Pháp mạnh hơn hoặc bằng với lực lượng địch, và vào thời điểm tấn công thì dùng yếu tố bất ngờ như vũ bão, như trong trận Austerlitz.

Vào đầu thế kỷ 19, quân đội Pháp có vẻ như vô địch nhưng thật ra, vẫn có các khuyết điểm. Dịch vụ y tế tại mặt trận rất yếu kém khiến cho nhiều người lính bị chết vì bệnh dịch, vì các vết thương không được chăm sóc cẩn thận. Lương bổng trả cho người lính còn thấp và không đều đặn, việc tiếp liệu thất thường, người và ngựa phải sống nhờ trên các miền đất bị chiếm đóng để tiết kiệm các chi phí và không lệ thuộc nhiều vào các đoàn xe tiếp tế.

Từ nay, toàn thể châu Âu được coi như chia ra làm ba phần: thứ nhất là Đế Quốc Pháp, bao gồm nước Pháp và các miền đất sát nhập kể từ năm 1789, thứ hai là các xứ vệ tinh của Pháp, cai trị bởi những người họ hàng của Napoléon, và các quốc gia bị bắt buộc theo Pháp do thua trận, gồm các nước Áo, Phổ và Nga, và thứ ba là ba nước Anh, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ, nằm bên ngoài hệ thống cai trị của Napoléon. Vào năm 1810, Bá Tước Bernadotte là một thống chế của Napoléon, đã được người dân Thụy Điển mời làm vua của xứ họ, thay thế cho vị vua không có con nối dõi ngai vàng. Và về sau, chính Tướng Bernadotte đã chủ trương các chính sách của Thụy Điển chống lại Napoléon.

Tại miền trung của châu Âu, Napoléon đã ban ra các đạo luật giải tán một số xứ chư hầu Đức, rồi tới năm 1806, Đế Quốc Thần Thánh La Mã (the Holy Roman Empire) bị giải thể. Vị hoàng đế cuối cùng của Đế Quốc Thần Thánh La Mã là Francis I, thuộc dòng họ Hapsburg, nay trở thành hoàng đế của nước Áo. Napoléon đã tạo ra Liên Bang Sông Rhine (the Confederation of the Rhine) bao gồm các miền đất bên ngoài nước Phổ và nước Áo.

Đế quốc Pháp của Napoléon Bonaparte đã mỗi năm một mở rộng và Napoléon đã không do dự khi chỉ định các người trong dòng họ lên ngai vàng tại các xứ sở rải rác của châu Âu. Năm 1806, người em trai Louis Napoléon lên làm Vua xứ Hòa Lan. Anh Joseph Napoléon, sau hai năm làm Vua vương quốc Naples, nay được chỉ định làm Vua xứ Tây Ban Nha từ năm 1808. Người em Jerome làm Vua xứ Westphalie mới được thành lập năm 1807, còn các người em khác cũng không bị bỏ quên. Em gái Caroline, người kết hôn với Thống Chế Joachim Murat, đã thay thế anh Joseph, lên ngai vàng tại Naples vào năm 1808, còn một người em gái khác là Elisa, có chồng là ông hoàng Lucca, được phong Nữ Bá Tước (grand duchess) miền Tuscany năm 1809. Ngoài ra, người con riêng của bà Beauharnais là Eugène de Beauharnais được giữ chức Phó Vương của vương quốc Ý Đại Lợi.

Napoléon Bonaparte cũng nghĩ tới người con nối dõi. Bà Josephine bị ly dị sau cuộc hôn nhân 15 năm không con và vào năm 1810, Napoléon đã kết hôn với công chúa Marie Louise, con gái của Vua Francis I, thuộc dòng họ Hapsburg. Bà Marie Louise này đã có với Napoléon một đứa con trai, được gọi là “Vua La Mã” (the king of Rome) nhưng về sau, đứa bé này đã không hề làm vua xứ sở nào cả.
7- Đế Quốc Pháp sụp đổ.

Chủ nghĩa đế quốc của Napoléon đã thể hiện rõ ràng qua “Hệ Thống Lục Địa” (the Continental System). Đây là chương trình muốn điều hành nền kinh tế của toàn thể châu Âu bằng các mục tiêu chính trị, kinh tế và quân sự, và qua một chính sách làm sao xây dựng nền xuất cảng của nước Pháp và làm tê liệt nền kinh tế của nước Anh. Dưới ảnh hưởng của Pháp là các nước Đan Mạch, Na Uy, Phổ và đế quốc Áo. 42 triệu người dân đã nằm dưới quyền hành của Napoléon Bonaparte. Bên ngoài ảnh hưởng của Hoàng Đế Napoléon là các nước Anh, Nga, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ. Để triệt tiêu nước Anh, Napoléon đã ký đạo luật Berlin năm 1806, cấm đoán mọi mậu dịch với các hải đảo Anh và hạ lệnh bắt giữ mọi tầu biển Anh cũng như tịch thu các tài sản, hàng hóa của người Anh. Nước Anh đã phản ứng lại bằng cách bắt buộc các tầu biển trung lập phải trả thuế tại các hải cảng Anh trước khi chở hàng qua nước Pháp.

Vào tháng 12 năm 1807, đạo luật Milan của Napoléon lại ra lệnh bắt giữ mọi tầu thuyền trung lập tuân theo chính sách của nước Anh và như vậy, các nước trung lập bị đẩy vào thế kẹt ở giữa. Kết quả của hai đạo luật kể trên của Napoléon đã tạo nên một loại phong tỏa lục địa châu Âu. Chính sách “nước Pháp là ưu tiên một” (France first) đã gặp thất bại nặng nề. Chỉ một số kỹ nghệ của nước Pháp hưởng lợi qua “Hệ Thống Lục Địa”, như việc cấm nhập cảng đường ăn từ các quần đảo Tây Ấn, đã làm phát triển củ cải đường (sugar beet). Ngược lại, nền ngoại thương của nước Pháp với các quốc gia bên ngoài bị suy sụp. Thành phố Bordeaux và các hải cảng nằm trên Địa Trung Hải trở nên tiêu điều, các nguyên liệu bị khan hiếm chẳng hạn như bông gòn. Nạn thất nghiệp, phá sản và buôn lậu gia tăng, nhất là tại xứ Hòa Lan, giá trị xuất cảng ra các thị trường hải ngoại của nước Pháp bị giảm đi hơn một phần ba giữa các năm 1805 và 1813.

Mặt khác, Hệ Thống Lục Địa đã không làm sụp đổ nước Anh dù cho người dân Anh đã phải chịu đựng nhiều thiếu thốn: thực phẩm nhập cảng giảm, vật giá gia tăng, tiền tệ cung cấp không đủ cho sức cầu. Nhưng nước Anh đã vượt qua được các khó khăn nhờ các cải cách kinh tế, nhờ sự vượt trội về Hải Quân và Hàng Hải Thương Thuyền, nhờ các thị trường mới, phong phú hơn được mở ra tại châu Mỹ, tại đế quốc Ottoman và tại châu Á, và cũng nhờ ngành buôn lậu vào lục địa châu Âu. Nước Pháp của Napoléon vào thời kỳ này đã thiếu đi một lực lượng hải quân đủ mạnh để bắt giữ các kẻ buôn lậu, thiếu thốn các đội ngũ nhân viên quan thuế trong sạch điều hành các hải cảng và trong khi đó, quân đội Pháp lại rất cần một số mặt hàng sản xuất từ các cơ xưởng của nước Anh, chẳng hạn các quân trang bằng da và bằng vải.

Hệ Thống Lục Địa của Napoléon đã tạo ra các hậu quả xấu về chính trị, kinh tế và quân sự khi vào năm 1807, Hoàng Đế Napoléon áp đặt các chính sách của mình lên nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Sau thời Cách Mạng Pháp, các tư tưởng dân chủ của người Pháp, các tinh thần quốc gia của các xứ tại châu Âu đã khiến cho người dân châu Âu dần dần nổi lên chống lại sự đô hộ của Napoléon.

Vào năm 1808, Napoléon đã lật đổ dòng họ Bourbons của Tây Ban Nha và thay vào bằng người anh Joseph làm vua xứ này. Việc áp đặt chế độ quân chủ xa lạ và Hệ Thống Lục Địa lên nước Tây Ban Nha, việc hủy bỏ các đặc quyền của giới quý tộc và tu sĩ địa phương, đã là các vi phạm vào các phong tục, tập quán và niềm hãnh diện của người dân Tây Ban Nha, vì vậy một cuộc nổi loạn đã xẩy ra vào ngày 2-5-1808 tại Madrid.

Cuộc nổi dậy Madrid của người dân Tây Ban Nha đã bị dập tắt một cách tàn nhẫn nhưng từ nay cũng bắt đầu cuộc Chiến Tranh Bán Đảo (the Peninsular War), gọi tên theo bán đảo Iberian. Các quân du kích Tây Ban Nha đã phục kích quân đội Pháp, dùng thuốc độc bỏ vô các giếng nước, cũng như các cách đánh lén khác. Quân du kích Tây Ban Nha còn được trợ giúp bởi quân đội Anh, lãnh đạo do Sir Arthur Wellesley (1769-1852), người mà sau này là Hầu Tước Wellington. Napoléon đã đổ hơn 300,000 quân vào chiến dịch Tây Ban Nha nhưng tới năm 1812, khi quân Pháp xâm lăng nước Nga thì lực lượng du kích Tây Ban Nha đã chiếm ưu thế. Năm 1813, Vua Joseph Napoléon phải rút lui vĩnh viễn khỏi Madrid và Hầu Tước Wellington đã giải phóng được nước Tây Ban Nha rồi đưa quân tiến sang miền nam nước Pháp.

Tại phía đông của nước Pháp, tinh thần quốc gia của người dân nước Phổ đã phát triển. Hai anh em Jacob (1785-1863) và Wilhelm Grimm (1786-1859) đã viết ra các chuyện thần tiên (fairy tales) trong khoảng các năm 1812-15, chứng tỏ được tính ưu việt của ngôn ngữ Đức, đồng thời nhà triết học J.G. Fichte (1762-1814) cùng các nhà tiên tri về Quốc Gia Đức, đã bắt đầu đặt nền móng cho các lý thuyết về Quốc Gia Đức Mới. Trong “Các bài nói với Dân Tộc Đức” (Addresses to the German People, 1807-08), Fichte đã cho rằng Tiếng Đức là nguồn của ngôn ngữ (Ursprache) và người dân Đức thuộc về một quốc gia cổ nhất và đạo đức nhất (Urvolk). Như vậy phản ứng chống đối sự đàn áp của người Pháp bắt đầu từ các nhà trí thức Đức và từ tầng lớp ưu tú. Sau đó, các tướng lãnh và các chính khách có khả năng đã nắm quyền cai trị nước Phổ, là tiền thân của nước Đức sau này. Tại nước Phổ, Tướng Gerhard von Scharnhorst (1755-1813) đã đứng đầu các sĩ quan cao cấp, tổ chức lại quân đội cho có hiệu quả hơn và theo các nguyên tắc dân chủ hơn. Giới hạn 42,000 quân do Napoléon ấn định cho xứ sở Phổ đã được các sĩ quan Phổ tránh né bằng cách huấn luyện và tổ chức các đoàn tân binh nhờ đó vào năm 1813, nước Phổ đã có hơn 150,000 binh lính sẵn sàng chiến đấu.

Đồng thời với các cải cách quân đội, việc tổ chức hành chính và xã hội cũng được thực hiện tại nước Phổ do các ý kiến của Bá Tước Heindrich Stein (1757-1831), một nhà quý tộc khai sáng thuộc miền Rhineland, nhờ đó các tỉnh và thành phố được thêm quyền tự trị, các người Do Thái có thêm nhân quyền, chế độ nông nô bị hủy bỏ do đạo luật tháng 10 năm 1807. Tinh thần quốc gia Đức đã trỗi dậy.

Sau năm 1807, khi Sa Hoàng Alexander gặp gỡ Napoléon tại Tilsit, các hành động của người Pháp đã khiến cho Hoàng Đế Nga nghi ngờ sự thành thật của Napoléon Bonaparte. Tới năm 1809, khi quân đội Pháp chiếm đóng nước Áo thì miền Balkan thuộc Nga bị đe dọa và việc cắt xứ Galicia của nước Áo sát nhập vào lãnh địa hầu tước Warsaw đã đe dọa phần đất Ba Lan thuộc Nga. Ngoài ra, còn có áp lực của người Pháp muốn người Nga tuân theo Hệ Thống Lục Địa. Cuộc gặp gỡ giữa Sa Hoàng và Napoléon tại thành phố Đức Erfurt vào năm 1808 đã không mang lại sự đồng ý giữa 2 nước Pháp và Nga, rồi xứ Oldenburg bị sát nhập vào miền ảnh hưởng thuộc Pháp, cai trị do người em rể của Napoléon làm hầu tước. Tất cả các sự kiện này đã gây nên cuộc xâm lăng nước Nga vào năm 1812 của Napoléon.

Mùa xuân năm 1812, Napoléon Bonaparte đưa quân vào xứ Ba Lan, đe dọa biên giới của Sa Hoàng Alexander rồi sau khi các thỏa hiệp không thành, Đại Quân của Napoléon vào khoảng 453,000 người, đã vượt qua dòng sông Niemen, tiến sang đất Nga. Quân đội Nga đã rút lui, áp dụng chiến lược “tiêu thổ kháng chiến”. Mùa đông trên lãnh thổ Nga rất khắc nghiệt. Quân đội Nga càng rút lui, càng khiến cho quân đội Pháp sa lầy vào xứ sở tuyết trắng mênh mông với các điều kiện sinh sống mà Napoléon chưa từng có kinh nghiệm. Hệ thống tiếp liệu của người Pháp ở quá xa, làng mạc Nga đã bị đốt sạch trước khi quân Pháp tiến tới khiến cho người và ngựa của lực lượng Pháp không thể tìm ra được các thực phẩm thông thường. Một cận vệ của Napoléon đã phải ghi lại rằng : “à không tìm ra được một cư dân nào, không bắt được một tù binh nào. Chúng tôi đang ở trung tâm của xứ Nga không người cư ngụ và chúng tôi giống như một con tầu không có địa bàn, ở giữa một đại dương rộng lớn, không biết điều gì sẽ xẩy ra chung quanh chúng tôi”.

Vào ngày 7 tháng 9 năm 1812, Tư Lệnh lực lượng Nga là Tướng Mikhail I. Kutuzov (1745-1813) đã dàn trận, đánh quân Pháp tại Borodino. Trận chiến rất đẫm máu, tàn ác và không phân thắng bại. Napoléon muốn kết thúc cuộc chiến thật nhanh mà không được. Một tuần lễ sau, Napoléon đã tiến vào thành phố Moscow, nơi mà người Nga rút lui sau khi đã đốt cháy mọi cơ sở. Sa Hoàng Alexander nhất định không chịu thương thuyết. Việc rút quân Pháp bị coi là bắt buộc. Mùa đông đã tới sớm trên đất Nga. Lực lượng Pháp bị thiệt hại nặng nề vì thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu phương tiện y tế, luôn luôn bị quân du kích Nga quấy phá và bị tấn công bởi “Đại Tướng Mùa Đông” (General Winter). Sau cuộc rút quân vượt qua sông Berezina vào tháng 11, lực lượng chính của Napoléon chỉ còn ít hơn 20,000 lính đói ăn và rách rưới tả tơi. Đa số quân Pháp đã chết vì đói, vì lạnh, vì bệnh tật, một số lớn bị bắt làm tù binh. Vào lúc này, các lãnh tụ Nga cũng e ngại Napoléon sẽ giải phóng các nông nô để họ nổi lên chống lại các địa chủ, nhưng những người nông dân bần cùng này đã tham gia vào các đội quân du kích, đánh phá quân đội Pháp. Khi lực lượng Pháp đang rút lui thảm bại, Tư Lệnh Nga là Tướng Kutuzov muốn để các nước đồng minh của Nga tiếp tục đánh quân Pháp nhưng Sa Hoàng đã ra lệnh cho đạo quân Nga truy kích quân Pháp qua cả biên giới của nước Nga.

Sự thất trận của Napoléon Bonaparte trên đất nước Nga đã làm phấn khởi các dân tộc của châu Âu. Tại nước Đức, đã có các cuộc biểu tình chống Pháp. Các lính quân dịch Đức bị bắt buộc phục vụ trong Đại Quân Pháp đã đào ngũ và tham gia vào lực lượng quân sự chống đối. Người Áo cũng rút về quân đội của họ và có thái độ thù nghịch với người Pháp còn tại nước Ý, người dân đã vùng lên phản kháng. Tại Paris, trong cuộc đảo chính vào ngày 23-10-1812, đã có công bố rằng Napoléon bị chết trận tại nước Nga. Tất cả các yếu tố này đã khiến cho Napoléon Bonaparte vội vã rút lui trở về Pháp trước cả Đại Quân. Trong cuộc xâm lăng nước Nga, gần 500,000 binh lính của Napoléon đã bị chết, hoặc đào ngũ hay bị bắt làm tù binh.

Napoléon Bonaparte trở về tới Paris vào ngày 18 tháng 12 và đã công nhận cuộc thảm bại trong bản thông cáo số 29 (the 29th Bulletin). Dù vậy, dân chúng Pháp vẫn còn ủng hộ Napoléon. Chế độ độc tài một lần nữa lại được củng cố và Napoléon tổ chức lại các đội quân mới.

Từ năm 1813, người dân của các xứ sở khác nhau của châu Âu đã nổi lên chống lại người Pháp vì nền Tự Do của họ, giống như người Pháp đã tranh đấu vì Tự Do trong các năm 1792 và 1793, và vào lúc này, niềm phấn khởi của người dân Pháp khi trước đã không còn. Lý tưởng chinh phục của Hoàng Đế Napoléon không còn được dân chúng Pháp hậu thuẫn.

Sau khi rút lui khỏi nước Nga, Napoléon Bonaparte lại phải đương đầu với liên minh quân sự mới gồm các nước Anh, Nga, Áo, Phổ và Thụy Điển. Tháng 4-1812, Napoléon với các đạo quân mới, đã đánh thắng quân Nga và quân Phổ tại các trận Lutzen, Bautzen và Dresden nhưng lực lượng của Liên Quân đông hơn. Đại Quân của Napoléon rất cần được tăng cường nhưng không thể thực hiện nổi việc bổ sung quân số. Do sự trung gian của nước Áo, một hội nghị các nước liên minh chống Pháp được tổ chức tại Prague và giải pháp do Bộ Trưởng Ngoại Giao Metternich đề nghị là Đế Quốc Pháp phải rút lui về các biên giới thiên nhiên cũ, lãnh địa hầu tước Warsaw cùng Liên Bang Sông Rhine phải bị giải tán và nước Phổ lấy lại được các biên giới của năm 1805. Trong hoàn cảnh này, Napoléon đã phạm phải một sai lầm, là đã do dự quá lâu. Hội nghị kể trên đã bế mạc vào ngày 10-8 trước khi bản văn trả lời của Napoléon tới nơi. Nước Áo bèn tuyên chiến.

Trong cuộc chiến tranh chống lại Napoléon, nước Anh là quốc gia đầu tiên đã đánh thắng người Pháp tại Trafalgar và trên các mặt trận kinh tế của Hệ Thống Lục Địa. Sau đó là các thất bại của Napoléon tại nước Tây Ban Nha và tại nước Nga. Quân đội Pháp càng ngày càng suy kém đi. Các người lính quân dịch Đức đã dần dần đào ngũ, bỏ chạy qua phía liên minh chống Pháp. Napoléon cố gắng xây dựng lại một đạo quân mới, nhưng đã không thể thay thế các trang bị thiệt hại trên đất Nga. Cuộc sụp đổ nặng nề nhất của Napoléon Bonaparte là “Trận chiến Leipzig” hay “Trận chiến của các Quốc Gia” (the Battle of the Nations) diễn ra vào các ngày 16 tới 19 tháng 10 năm 1813, tại đó Đại Quân (Grand Armée) Pháp đã bị đập nát tan tành. Các đoàn quân Pháp tại Tây Ban Nha đã phải rút lui sau các thất trận vào tháng 6, rồi quân đội Anh tấn công quân Pháp tại phía bắc của miền Pyrenées. Tại nước Ý, quân Áo đã vượt qua dòng sông Adige, chiếm Romagna và Thống Chế Murat, vị tướng duy nhất phản bội Hoàng Đế Napoléon, đã ký giao ước với triều đình Vienna. Các người Bỉ và Hòa Lan cũng nổi lên chống lại người Pháp.

Vào tháng 1 năm 1814, nước Pháp bị tấn công tại tất cả các biên giới. Các nước liên minh đã khôn khéo tuyên bố rằng họ chỉ chống lại cá nhân ông Napoléon. Tại chính nước Pháp, Quốc Hội Lập Pháp và Thượng Viện Pháp, trước kia dễ dàng vâng lời Napoléon, thì nay lại đứng lên đòi hỏi hòa bình và các tự do chính trị, dân sự.

Qua Hiệp Ước Chaumont ký vào tháng 3-1814, các nước Áo, Anh, Nga và Phổ đã đồng ý không thương thuyết riêng lẻ với nước Pháp trong 20 năm, cho tới khi nào Napoléon bị lật đổ. Khi thua trận Leipzig, Napoléon đã phải rút về và liên quân đã tiến vào thành phố Paris vào ngày 30 tháng 3. Các người có chức quyền của thành phố Paris vào lúc này không còn e sợ Hoàng Đế Napoléon nữa, họ tìm cách bắt liên lạc với liên minh quân sự. Là nhà lãnh đạo của chính phủ lâm thời, ông Talleyrand đã đề nghị việc truất phế Hoàng Đế Napoléon và rồi không tham khảo ý kiến của dân chúng Pháp, ông ta đã thương thuyết với Louis 18, người em của vị Vua Pháp bị hành quyết là Louis 16. Khi Napoléon rút quân về tới Fontainebleau thì được tin thành phố Paris đã đầu hàng lực lượng Liên Minh. Được khuyên nhủ việc chống trả sẽ vô ích, Hoàng Đế Napoléon cuối cùng đồng ý thoái vị vào ngày 11-4-1814.

Do Hiệp Ước Fontainebleau, các nước liên minh đồng ý giao cho Napoléon cai quản một tiểu vương quốc là hòn đảo Elba, nằm tại phía tây bắc của bờ biển Ý Đại Lợi, với lợi tức hàng năm là 2 triệu quan do nước Pháp cung cấp và một đội quân bảo vệ gồm 400 người tình nguyện, và ông Napoléon vẫn giữ được danh hiệu Hoàng Đế. Sau lần dự mưu tự vẫn bằng độc dược không thành công, Napoléon Bonaparte ngỏ lời từ biệt “Toán quân cận vệ cũ” (the Old Guard), qua sống tại đảo Elba. Vợ và con trai của ông được gửi về nuôi bên người cha vợ, là Hoàng Đế Francis I của nước Áo. Napoléon không bao giờ được gặp lại hai người thân này.

Sau cuộc chiến thắng Napoléon, các chính khách của Liên Minh đã hội họp tại Vienna để phác thảo ra kế hoạch hòa bình. Vua Louis 18, thuộc dòng họ Bourbon, lên ngai vàng của nước Pháp và đã ban ra đạo dụ năm 1814, thiết lập nên chế độ quân chủ lập hiến. Đã xẩy ra cuộc “khủng bố trắng” của phe bảo hoàng đối với các người Cách Mạng Pháp cũ.

Việc phục hưng dòng họ Bourbon đã sớm bị dân chúng Pháp chỉ trích. Mặc dù vào năm 1814, người dân Pháp chán nản trước Hoàng Đế Napoléon nhưng họ cũng không mong muốn sự trở về của phe bảo hoàng, vì Vua Louis 18 đã lên ngai vàng do sự trợ giúp của các người ngoại quốc. Người dân Pháp vào lúc này vẫn còn lưu luyến các thành quả của Cách Mạng. Bắt đầu có các âm mưu chống đối chính quyền hoàng gia mới.

Tại đảo Elba, Napoléon vẫn theo dõi các tiến triển trên lục địa. Vì vào lúc này, các nhà chính trị tại Vienna đang trù liệu về số phận của châu Âu và họ coi đảo Elba quá gần với nước Pháp và nước Ý, nên họ muốn đầy Napoléon tới một hòn đảo thật xa trong Đại Tây Dương. Napoléon cũng phản đối nước Áo đã ngăn trở không cho vợ con theo sống với ông trên đảo. Thực ra, bà Marie Louise lúc này đã có một người tình nên không có ý định đi theo chồng, và thêm vào đó, chính phủ Pháp cũng từ chối trợ cấp tài chính cho Napoléon, khiến cho ông lâm vào hoàn cảnh túng thiếu. Tất cả những yếu tố kể trên đã đưa đẩy Napoléon phải hành động.

Vào tháng 2 năm 1815, Napoléon Bonaparte cùng với 1,100 người theo đi đầy trước kia, đã xuống tầu, rời đảo Elba, tìm đường qua đất Pháp. Ngày 1 tháng 3 năm đó, họ đổ bộ tại Cannes và rồi tiến về thành phố Paris. Khi vượt qua rặng núi Alps, Napoléon đã được các nông dân cộng hòa vây quanh tán thưởng. Một đạo quân được phái đi từ Paris do Thống Chế Michel Ney chỉ huy, để bắt Napoléon nhưng khi những người này gặp lại vị lãnh tụ cũ của họ, họ đã hoan hô Napoléon Bonaparte như là vị Hoàng Đế và tham gia vào đoàn quân mới. Trước tình thế mới, Vua Louis 18 bỏ chạy. Ngày 20-3, Napoléon Bonaparte tiến vào thành phố Paris và được đám đông dân chúng khiêng lên, đưa vào Điện Tulleries. Ngay sau đó, Napoléon đã công bố một hiến pháp mới có tính giới hạn các quyền hành của ông, và ông cũng hứa với các nước liên minh rằng ông sẽ không gây chiến. Nhưng các nhà lãnh đạo của các nước liên minh vẫn coi Napoléon là “kẻ thù và kẻ quấy phá nền hòa bình của thế giới”. Vì vậy, cả hai phe lại chuẩn bị chiến tranh.

Để chống lại các đạo quân liên minh tập trung tại biên giới nước Pháp, Napoléon đưa 125,000 quân sang nước Bỉ. Ngày 16-6, Napoléon đánh bại Thống Chế Gebhard von Blucher của nước Phổ tại Ligny, gần Fleurus. Ngày 18-6 tại Waterloo, Napoléon tấn công đạo quân Anh dưới quyền Tướng Wellington, là kẻ chiến thắng tại cuộc Chiến Tranh Bán Đảo. Trận chiến tàn sát đã diễn ra. Hàng ngàn kỵ binh Pháp đã xông trận và Napoléon sắp sửa chiến thắng thì đạo quân Phổ của Thống Chế Blucher tiến đến, tăng cường cho đạo quân Anh, và mặc dù đạo quân cận vệ cũ (the Old Guard) đã chiến đấu rất kiên cường, Napoléon đã bị thua trận vì bị địch quân quá đông áp đảo. Napoléon bị thiệt hại 25,000 lính chết và bị thương, 9,000 lính bị bắt. Tổn thất của Tướng Wellington là 15,000 quân và của Thống Chế Blucher vào khoảng 8,000 người. Waterloo trở nên một trong các trận đánh danh tiếng nhất trong Lịch Sử.

Napoléon Bonaparte bỏ chạy về Paris và phải thoái vị lần thứ hai vào ngày 22 tháng 6 năm 1815. Thời gian Napoléon trở về Paris từ đảo Elba tới khi ông thoái vị lần này, được gọi là “Giai đoạn 100 ngày”. Ngày 3 tháng 7, Napoléon đã tới Rochefort, định tìm đường trốn qua châu Mỹ nhưng con tầu chiến của nước Anh tên là Bellerophon, do Đại Tá Frederick Lewis Maitland chỉ huy, đã ngăn chặn, không cho con tầu Pháp chở Napoléon rời khỏi bến cảng. Napoléon đành phải kêu gọi sự bảo vệ an ninh của người Anh. Các nước liên minh lần này cùng đồng ý về một điểm: ông Napoléon Bonaparte sẽ không được trở về đảo Elba nữa mà bị đưa tới một hòn đảo rất xa. Sau đó chính quyền Anh công bố rằng hòn đảo Saint Helena tại phía nam Đại Tây Dương đã được chọn làm nơi cư ngụ cho cựu hoàng.

Ngày 15 tháng 10 năm 1815, Napoléon cùng với một số người tình nguyện theo đi đầy, đã bước lên hòn đảo St. Helena, gồm có: Tướng Henri-Gratien Bertrand, nguyên thống chế bản doanh với vợ, Bá Tước Charles de Montholon, tùy viên với vợ, Tướng Gaspard Gourgaud, ông Emmanuel Las Cases, cựu nhân viên cao cấp hoàng gia, và một số tùy tùng cũ. Sau một thời gian ngắn cư ngụ tại ngôi nhà của một thương gia Anh giàu có, Napoléon Bonaparte dọn tới nhà của vị toàn quyền hòn đảo xây dựng tại Longwood.

8- Ngày tàn của Hoàng Đế Napoléon.

Napoléon Bonaparte trở về với đời sống buồn tẻ hàng ngày. Mỗi ngày ông thức dậy trễ vào khoảng 10 giờ sáng và ít khi bước chân ra khỏi nhà. Ông được tự do đi lại trên đảo nhưng với điều kiện phải có một sĩ quan người Anh đi kèm. Ông đã không chịu chấp nhận điều kiện này mà ở trong nhà đọc sách và nói chuyện với các người thân cận cũ. Người thư ký của ông là Las Cases đã ghi chép lại các lời tường thuật của vị cựu Hoàng Đế Pháp để về sau, biên soạn thành sách.

Buổi tối từ 7 tới 8 giờ, Napoléon dùng cơm chiều, sau đó dành thời giờ chơi bài hay đọc sách. Ông ưa thích các tác phẩm cổ điển. Ông cũng học tiếng Anh và bắt đầu đọc được báo chí Anh nhưng ông cũng có nhiều sách Pháp từ lục địa gửi qua, và ông đã đọc chăm chú các cuốn sách này cùng ghi thêm các lời nhận xét.

Saint Helena là một hòn đảo khí hậu tốt nhưng một nhân vật đã từng dọc ngang chinh phục khắp châu Âu trong 20 năm trường làm sao chịu đựng được cảnh cô quạnh, giam hãm trên một hòn đảo hẻo lánh. Napoléon Bonaparte lại không được tin tức gì về vợ và con, biết đâu rằng Hoàng Hậu Marie Louise đã lập gia đình một cách lén lút với một sĩ quan người Áo tên là Graf Adam von Neipperg mà không đợi tới lúc ông chết. Người con trai của ông, sinh ngày 20-3-1811 có tên là Francois Charles Joseph Bonaparte, lúc sinh ra đã có danh hiệu “Vua La Mã” (King of Rome), thì nay trưởng thành và sinh sống như một tù nhân hoàng gia dưới sự canh chừng của ông ngoại là Hoàng Đế Áo Francis I. Thời đó, các chính khách của phe liên minh vẫn e ngại các người ủng hộ Napoléon sẽ lợi dụng danh nghĩa của cậu con trai này để mưu cầu quyền lực tại nước Pháp nên Francois Bonaparte được đổi tên thành Hầu Tước Reichtadt.

Từ tháng 4 năm 1816, Sir Hudson Lowe tới đảo St. Helena làm toàn quyền, đã khiến cho đời sống của Napoléon khó chịu thêm. Napoléon trước kia đã không ưa gì ông Lowe, là người đã từng chỉ huy toán quân xung kích trên đảo Corsica và đây là nhóm lính tình nguyện phần lớn căm thù gia đình Bonaparte. Sir Lowe cũng hiềm khích với ông Las Cases, người tin cẩn của Napoléon và đã tìm cách bắt bớ ông này rồi trục xuất khỏi đảo. Vì vậy, liên lạc giữa Napoléon và vị toàn quyền đã trở nên căng thẳng.

Tới cuối năm 1817, đã có dấu hiệu bệnh tật nơi vị cựu Hoàng Đế, một phần cũng vì ông thiếu vận động. Napoléon có triệu chứng bị ung thư bao tử. Vị bác sĩ người Ái Nhĩ Lan là ông Barry O’ Meara đã từng khuyên Napoléon thay đổi lối sống, nay bị thuyên chuyển đi nơi khác. Thay thế là một bác sĩ tầm thường, gốc thuộc đảo Corsica với tên là Francesco Antommarchi, đã cho thuốc cựu Hoàng Đế nhưng không làm sao điều trị được thứ bệnh nan y vào thời đại đó.

Đầu năm 1821, căn bệnh của Napoléon trở nên trầm trọng thêm. Từ tháng 3, vị cựu Hoàng Đế bị nằm liệt giường. Tháng 4, Napoléon Bonaparte đã đọc lời di chúc cuối cùng, gồm có câu : “Tôi ước muốn nắm xương tàn của tôi nằm bên bờ sông Seine, ở giữa những người dân Pháp mà tôi rất yêu mến. Tôi chết trước thời hạn, bị giết bởi thể chế hoạt đầu Anh (the English oligarchy) và do các kẻ sát nhân được thuê mướn”.

Ngày 5 tháng 5 năm 1821, cựu Hoàng Đế Napoléon đã thều thào câu nói : “Thượng Đế của tôi, Nước Pháp, con trai của tôi, vị chỉ huy quân đội”. Napoléon đã qua đời lúc 5:49 giờ chiều ngày hôm đó, khi chưa tròn 52 tuổi. Thi thể của ông được mặc vô bộ quân phục mà ông ưa thích và được phủ lên bằng tấm áo choàng màu xám, tấm áo trận mà ông đã khoác trong trận đánh Marengo. Đám tang của ông được tổ chức đơn giản tại thung lũng Rupert, nơi ông thường đi tản bộ và trên nấm mộ bên cạnh 2 cây liễu rủ, có tấm đá ghi hàng chữ : “Nơi đây an nghỉ “ (Ci-Git).

Vào năm 1840, Hoàng Tử Francois, con của Vua Louis-Philippe nước Pháp, đã được phái đi trên một tầu chiến tới đảo St. Helena để mang về Pháp di cốt của cựu Hoàng Đế Napoléon theo như ước nguyện cuối cùng của ông. Lễ an táng rất trọng thể được tổ chức tại thành phố Paris vào tháng 12 năm đó, và linh cữu của Napoléon Bonaparte được đưa qua Khải Hoàn Môn (Arc de Triomphe) và đặt tại Giáo Đường Du Dome (Eglise du Dome), một bộ phận của Đài Chiến Sĩ Trận Vong (Hotel des Invalides).

Napoléon Bonaparte vừa là một nhân vật lịch sử, vừa là một nhân vật huyền thoại và đôi khi, khó lòng tách biệt 2 đặc tính này vì các sự kiện trong cuộc đời của ông đã từng làm bừng sống trí tưởng tượng của các văn sĩ danh tiếng, các nhà viết kịch có tầm vóc lớn và các nhà làm phim đa tài, họ là những người đã xây dựng nên các huyền thoại Napoléon.

Napoléon Bonaparte là một trong các vị lãnh đạo quân sự thiên tài bậc nhất trong Lịch Sử. Người ta đã coi ông là kẻ chinh phục ham quyền và chính Napoléon đã từng nói rằng ông không muốn chinh phục các dân tộc khác mà chỉ muốn xây dựng một liên bang các dân tộc tự do của châu Âu với một chính quyền cấp tiến. Nhưng vì mục đích này, Napoléon đã muốn tập trung mọi quyền lực vào trong tay mình.

Tại châu Âu và tại nước Pháp, câu châm ngôn “Tự Do – Bình Đẳng – Huynh Đệ” của cuộc Cách Mạng năm 1789 tuy chưa cho phép người dân Pháp thụ hưởng đầy đủ nền Dân Chủ như trong thế kỷ 20, nhưng từ năm 1815, dân chúng Pháp đã được đôi phần nào Tự Do hơn, giới trung lưu đã không còn gặp các giới hạn của chế độ cũ cấm đoán, các người Tin Lành, Do Thái và các nhà tự do tư tưởng đã nhận được sự dung thứ (toleration) trên miền đất Pháp và trên các xứ vệ tinh của Pháp. Hiến Pháp năm 1815 của nước Pháp tuy chưa đáp ứng được các lý tưởng dân chủ liệt kê qua Bản Tuyên Bố Dân Quyền (the Declaration of the Rights of Man) nhưng đã bao gồm trong đó một hình thức mới về tính Dân Chủ.

Cuộc Cách Mạng Pháp và Đế Chế Napoléon cũng đặt ra căn bản về quyền bình đẳng trước nghĩa vụ phải đóng thuế. Giai cấp thứ ba (the 3rd estate) được cung cấp nhiều cơ hội kinh tế hơn, các trở ngại áp đặt vào các hoạt động thương mại bị gỡ bớt, các phần đất rộng lớn của hai giai cấp quý tộc và tu sĩ bị phân chia, truyền qua tay giới tư sản thành thị và giới nông dân giàu có. Tính bình đẳng về tài sản (property) được xác nhận trong đạo luật Ventose của năm 1794 rồi về sau được bổ túc.

Cuộc Cách Mạng Pháp là một bước quan trọng trong việc đi lên của giới tư sản trung lưu, thuộc cả về thành thị lẫn nông thôn. Bộ Luật Napoléon sau đó đã chôn vùi mọi bất bình đẳng xã hội của chế độ cũ và cũng vì thế, Napoléon đã nói : “Bất kể tôi là Tổng Tài Thứ Nhất hay là Hoàng Đế, tôi đã là một vị Vua của dân chúng : tôi đã cai trị vì quốc gia, và vì lợi ích của quốc gia mà không để chính mình bị thiên lệch vì lời phản đối hay vì các tư lợi của một nhóm người nào”.

Cuộc Cách Mạng Pháp và Đế Chế Napoléon cũng làm thăng tiến tình huynh đệ qua đó, mọi người dân Pháp được coi là bình đẳng trước Pháp Luật và đồng thời cũng cổ động cho tinh thần quốc gia (nationalism), một tình cảm thuộc về một quần thể rộng lớn hơn là nước Pháp, một quốc gia được người dân coi là ưu đẳng hơn các quốc gia khác. Từ trước năm 1789, tinh thần quốc gia Pháp đã tồn tại qua các nhân vật như Joan of Arc, Vua Henry IV và Vua Louis 14 để rồi về sau, tinh thần quốc gia đó lại thể hiện qua đạo luật tổng động viên ngày 23-8-1793 của Hội Nghị Quốc Ước. Đế Chế Napoléon đã cho thấy tinh thần quốc gia đã dễ dàng đưa đến chế độ “đế quốc” với tầm vóc lớn lao mà trước kia chưa từng thấy.

Trong cuộc Cách Mạng Pháp, Robespierre và các đảng viên Jacobin là những người làm chính trị không nhân nhượng, tiếp theo là các nhân vật Thermidor và Brumaire trở nên thực tế hơn và ôn hòa hơn, rồi sau đó dưới thời Napoléon, tinh thần cách mạng đã trở thành một loại “tôn giáo”, đòi hỏi tới đặc tính chính thống chính trị (political orthodoxy), và tinh thần “quốc gia” sau năm 1815 đã tạo nên “các chiến sĩ, các tông đồ và các người tử đạo” (martyrs) tại nhiều nơi trên mặt đất.

Sau khi Napoléon Bonaparte qua đời, đã có các cuốn sách chê trách cũng như ca tụng danh tiếng của vị cựu Hoàng Đế này. Nhà văn người Pháp rất nổi danh và có cảm tình hoàng gia là ông Francois de Chateaubriand đã viết ra một tác phẩm văn chương chỉ trích Napoléon, có tên là “Về Buonaparte và dòng họ Bourbons, và sự cần thiết phải tập hợp quanh các ông hoàng chính gốc của chúng ta, vì sự an toàn của nước Pháp và của châu Âu “ (De Buonaparte, des Bourbons et de la nécessité de se rallier à nos princes légitime, 1814). Về sau vào năm 1870, khi Đế Chế Pháp thứ hai (the Second Empire) sụp đổ, cũng có các sách chê trách Napoléon mà đại biểu là cuốn “Các nguồn gốc của nước Pháp hiện đại” (Origines de la France contemporaine, 1876-94) của Hippolyte Taine. Napoléon Bonaparte cũng bị các nhà lý trí (rationalist) thuộc nhóm Bách Khoa (Encyclopédie) phê phán là “ông kẹ người đảo Corsica” (the Corsican ogre), người đã dám hy sinh 500,000 đồng bào vì các tham vọng của mình.

Trái với các lời phê bình kể trên, các huyền thoại về Napoléon Bonaparte đã phát triển rất mau. Các cuốn hồi ký, tường thuật, ghi chép của những người đi đầy theo cựu Hoàng Đế đã đóng góp rất đáng kể vào việc tạo dựng nên các huyền thoại đó. Ngay từ năm 1814, đã có các thơ văn ca tụng Napoléon, chẳng hạn như bài thơ ngắn của Lord Byron (Ode to Napoléon Bonaparte), bài thơ “Die Grenadiere” (Người lính bộ binh) của thi hào người Đức Henrich Heine. Cuộc đời của Napoléon được mô tả lại qua tác phẩm “Vie de Napoléon” của tiểu thuyết gia người Pháp Stendhal vào năm 1817.

Năm 1822, Bác Sĩ O’Meara đã cho xuất bản tại London cuốn sách “Napoléon trong cảnh tù đầy” (Napoléon in Exile) rồi năm sau, 1823, xuất hiện cuốn sách của Montholon và Gourgard với tên là “Hồi Tưởng để dùng cho lịch sử của nước Pháp dưới thời Napoléon, viết tại Sainte-Helène do Hoàng Đế đọc ra” (Mémoires pour servir à l’histoire de France sous Napoléon, écrits à Sainte-Helène sous sa dictée). Người thư ký riêng của Napoléon là ông Las Cases cũng trình bày cựu Hoàng Đế như là một người cộng hòa, đã chống lại châu Âu để bảo vệ Tự Do, qua tác phẩm nổi tiếng “Hồi Tưởng” (Memorial). Cuốn sách “Các giờ phút cuối của Napoléon” (Derniers moments de Napoléon) của Bác Sĩ Antommarchi cũng được in ra vào năm 1825 và con số các tác phẩm ca tụng Napoléon đã gia tăng rất nhiều, đáng kể là bài thơ ca ngợi của Victor Hugo (Ode à la Colonne), trong toàn tập 28 cuốn “Các vinh quang và chinh phục của người Pháp” (Victoires et conquêtes des Francais), và tác phẩm của Sir Walter Scott “Cuộc đời của Napoléon Bonaparte, Hoàng Đế của người Pháp” (Life of Napoleon Bonaparte, Emperor of the French).

Napoléon Bonaparte là một nhân vật đã để lại nhiều định chế lâu bền mà trên đó nước Pháp ngày nay vẫn còn được xây dựng, đó là hệ thống hành chính của các tỉnh (prefects), Bộ Luật Napoléon, hệ thống tư pháp, Ngân Hàng Pháp Quốc và tổ chức tài chính quốc gia, các đại học và các hàn lâm viện quân sự.

Napoléon Bonaparte là một danh nhân đã làm thay đổi Lịch Sử của nước Pháp và của Thế Giới.

@ Phạm Văn Tuấn

Nguồn: nghiencuulichsu.com